Chủ động tầm soát ung thư phổi dù chưa có triệu chứng, nhiều bệnh nhân được phát hiện bệnh sớm và điều trị triệt căn.
Giữa năm 2025, bà Nguyệt, 65 tuổi, đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM tầm soát ung thư phổi do có tiền sử gia đình mắc căn bệnh này. Phim chụp CT lồng ngực ghi nhận bà có khối u thùy giữa phổi phải, kích thước 1.5 cm, bệnh nhân đã được tư vấn khám xét can thiệp ngoại khoa nhưng lo lắng nên muốn theo dõi thêm. Sau 4 tháng, thăm khám chuyên khoa Ngoại Lồng ngực – Mạch máu, mặc dù không thấy u tăng kích thước đáng kể nhưng bác sĩ đánh giá u nguy cơ ác tính cao, đề nghị phẫu thuật nội soi sinh thiết lạnh để xác định bản chất khối u.
Trường hợp khác, ông Phương, 52 tuổi, tiền căn hút thuốc lá gần 30 năm, đến bệnh viện kiểm tra tổng quát. Chụp CT cũng phát hiện khối u 2 cm ở phổi phải. Bác sĩ Dũng đánh giá khối u có bề mặt gồ ghề, mật độ chắc, khả năng ác tính cao, cần mổ sớm để ngăn ung thư tiến triển.
Cả hai trường hợp đều được phẫu thuật cắt trọng khối u với sự hỗ trợ của robot Da Vinci Xi, làm sinh thiết lạnh. Sau 30 phút, kết quả đều xác định u ác tính. Bà Nguyệt mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm (1B), chưa có dấu hiệu xâm lấn xung quanh, được cắt toàn bộ thùy giữa phổi phải kèm nạo vét hạch nhằm triệt căn ung thư. Còn ông Phương ung thư phổi giai đoạn 2A, u ác tính lan đến các hạch bạch huyết kế cận nhưng chưa di căn xa đến các cơ quan khác. Bác sĩ điều khiển cánh tay robot để cắt thùy giữa phổi phải kèm nạo vét hạch.
Bà Nguyệt và ông Phương là hai trong số nhiều trường hợp chủ động tầm soát ung thư phổi dù chưa biểu hiện triệu chứng. “Khoảng 75% bệnh nhân ung thư phổi phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn, không còn khả năng phẫu thuật, đáp ứng kém với hóa trị, xạ trị”, bác sĩ Dũng nhấn mạnh, thêm rằng ung thư phổi là một trong những bệnh có tỷ lệ sống sót sau 5 năm thấp nhất (30% đối với ung thư phổi không tế bào nhỏ và 9% đối với ung thư phổi tế bào nhỏ).
Thông thường, khi xuất hiện các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư phổi thì lúc này bệnh đã ở giai đoạn tiến triển, khiến việc điều trị gặp nhiều khó khăn, suy giảm chất lượng cuộc sống. Do đó, tầm soát ung thư phổi, chẩn đoán và điều trị sớm sẽ gia tăng khả năng chữa dứt điểm căn bệnh này.
Tầm soát ung thư phổi là ứng dụng các phương pháp nhằm phát hiện bệnh từ lúc chưa có dấu hiệu nào, giúp phát hiện 80% các trường hợp ở giai đoạn sớm – thời điểm điều trị đạt kết quả tốt hơn hẳn so với chẩn đoán bệnh giai đoạn muộn.
Phương pháp hiệu quả nhất để tầm soát ung thư phổi và hiện đang được khuyến cáo là chụp cắt lớp vi tính ngực liều thấp, còn gọi là chụp CT ngực liều thấp. Ngoài ra còn có chụp X quang, MRI, PET/CT, sinh thiết, xét nghiệm máu, nội soi phế quản… Các đối tượng có nguy cơ cao nên tầm soát định kỳ gồm người trên 50 tuổi đang hoặc từng hút thuốc lá, người đã hút thuốc nặng trong nhiều năm, người từng nghiện thuốc lá nặng một thời gian dài và đã bỏ hút thuốc trong 15 năm qua, người có tiền sử bản thân hoặc gia đình mắc ung thư phổi. Bên cạnh đó, nam giới trên 55 tuổi, những người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), người tiếp xúc với các chất độc hại (amiăng, cadimi, niken, crom, uranium, thạch tín…) cũng nên tầm soát bệnh.
Phẫu thuật là lựa chọn hàng đầu trong điều trị ung thư phổi với mục đích giúp loại bỏ, ngăn chặn sự phát triển của khối u ác tính. Như bà Nguyệt, nhờ được cắt khối u phổi khi u còn nhỏ và chưa di căn, bà không cần các biện pháp bổ trợ sau mổ, nhanh chóng trở lại cuộc sống bình thường. Song với các trường hợp ung thư có dấu hiệu di căn như ông Phương, mổ thành công không có nghĩa là triệt căn tế bào ác tính. Sau phẫu thuật, người bệnh được hướng dẫn tập hít thở, đi lại nhẹ nhàng sau mổ vài giờ, xuất viện sau 5 ngày và xây dựng phác đồ hóa trị kết hợp xạ trị để ngăn ung thư tái phát.
Theo bác sĩ Dũng, nhiều bệnh nhân cho rằng khi đã cắt trọn khối u thì không cần điều trị thêm và từ chối các liệu pháp hỗ trợ. Thực tế, ngay từ khi ung thư hình thành, tế bào ác tính đã len lỏi trong máu và bạch huyết đến các vị trí khác. Đây là tình trạng “di căn ẩn” – chưa thấy được bằng mắt hoặc máy móc nhưng có thể phát triển thành khối u sau này. Vì vậy sau phẫu thuật ung thư phổi, người bệnh cần được cân nhắc điều trị bổ trợ bằng hóa chất, xạ trị, thuốc đích…
TTND.TS.BS.CKII Phạm Xuân Dũng, Giám đốc Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM cho biết, xạ trị là phương pháp sử dụng tia X năng lượng cao (tia xạ) để làm tổn thương tế bào ác tính, khiến chúng ngừng sinh sản và chết đi. Còn hóa trị là phương thức điều trị ung thư bằng thuốc hóa chất và thường được tiến hành theo đợt, theo sau bằng một khoảng nghỉ, giúp cơ thể có thời gian phục hồi chuẩn bị cho lần hóa trị kế tiếp. Xạ trị có thể tiến hành sau phẫu thuật, hóa trị được chỉ định trước hoặc sau phẫu thuật. Đôi khi xạ trị được kết hợp với hóa trị, gọi là hóa xạ đồng thời. Ngoài ra còn có các liệu pháp bổ trợ khác như liệu pháp miễn dịch (giúp cơ thể tạo ra miễn dịch chủ động, có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư), thuốc trúng đích (sử dụng thuốc nhắm vào mục tiêu cụ thể để tiêu diệt tế bào ung thư mà ít ảnh hưởng đến các tế bào lành, từ đó ít gây ra tác dụng phụ)…
Để phòng ngừa bệnh, mỗi người nên tránh xa thuốc lá vì đây là nguyên nhân chính dẫn đến ung thư phổi. Nếu không hút hoặc ngừng hút, nguy cơ có thể giảm tới 90%. Tập thể dục đều đặn, ăn uống lành mạnh và cân đối, giảm tiêu thụ rượu, duy trì cân nặng ổn định, kiểm soát căng thẳng… cũng giúp giảm nguy cơ mắc bệnh. Khi xuất hiện các triệu chứng nghi ngờ như ho kéo dài không rõ nguyên nhân, ho ra máu, khàn giọng, khó thở, tức ngực, đau lan vai, sụt cân không chủ ý, mệt mỏi toàn thân, nhiễm trùng hô hấp tái phát nhiều lần…, nên đi khám sớm.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH