Bà Thu, 56 tuổi, không có triệu chứng bất thường, đi khám sức khỏe phát hiện phình dạng túi động mạch chậu chung phải.
Ngày 06/06, TS.BS Nguyễn Anh Dũng, Trưởng khoa Ngoại Tim mạch – Lồng ngực, Trung tâm Tim mạch BVĐK Tâm Anh TP HCM cho biết, kích thước động mạch chậu bình thường khoảng 8-10 mm nhưng tại vị trí bị tổn thương, động mạch chậu của bệnh nhân phình to tạo thành dạng túi 2 cm, có nguy cơ vỡ. Chỗ phình nằm ngay “ngã ba” nơi động mạch chủ bụng chia đôi thành động mạch chậu phải và trái cấp máu cho hai chân.
BS.CKI Trần Quốc Hoài, khoa Ngoại Tim mạch – Lồng ngực, Trung tâm Tim mạch chia sẻ, có hai phương pháp chính điều trị phình động mạch, bao gồm phẫu thuật mổ mở cắt bỏ túi phình hoặc can thiệp nội mạch đặt stent phủ, mục tiêu chính để ngăn nguy cơ vỡ gây biến chứng nguy hiểm. Ở vị trí phình “đắc địa” của bà Thu, phẫu thuật tiềm ẩn nhiều rủi ro như hẹp miệng nối, chảy máu, suy hô hấp, nhiễm trùng, lâu hồi phục…
Để giảm biến chứng trong và sau mổ, bác sĩ chọn phương pháp can thiệp đặt stent có màng bọc bên ngoài (covered stent). Đây là loại stent thế hệ mới có tác dụng dẫn máu đi trong lòng stent, không cho máu thoát ra ngoài đi vào túi phình.
Theo bác sĩ Dũng, nếu chỉ đặt 1 stent vào chỗ phình động mạch chậu phải, stent không có “điểm tựa” sẽ không vững, dễ di lệch vị trí, khiến dòng máu đi qua động mạch chậu trái (bên bình thường) bị ảnh hưởng, thậm chí tắc nghẽn, gây thiếu máu chân trái. Vì thế, ê kíp sử dụng kỹ thuật CERAB (Covered Endovascular Reconstruction of the Aortic Bifurcation) – tái tạo chỗ chia đôi động mạch chủ bằng stent có màng bọc. Đây là thủ thuật xâm lấn tối thiểu nhưng đòi hỏi kỹ thuật chính xác, giúp điều trị tổn thương tại chỗ chia động mạch chủ – chậu.
Trong vòng hơn 1 giờ, bác sĩ đặt được 2 covered stent vào hai nhánh động mạch chậu trái – phải, giúp che phủ hoàn toàn khối phình, ngăn chặn nguy cơ tiến triển và vỡ phình đồng thời tái tạo dòng chảy trơn tru đến hai chân.
Hình ảnh chụp động mạch xóa nền sau can thiệp cho thấy túi phình ở động mạch chậu phải được cách ly hoàn toàn. Bà Thu xuất viện sau đó một ngày, được dặn dò theo dõi, tập luyện và duy trì uống thuốc đầy đủ để giảm nguy cơ hẹp, tắc stent.
Có nhiều nguyên nhân gây phình động mạch chậu: xơ vữa động mạch, nhiễm trùng, chấn thương do phẫu thuật vùng hông hoặc lưng dưới, tình trạng yếu bẩm sinh ở thành động mạch. Bệnh lý này ít gặp với tỷ lệ thấp, khoảng 0,1% dân số chung. Phình động mạch chậu thường gặp nhất tại động mạch chậu chung 70%, động mạch chậu trong 10%, động mạch chậu ngoài chiếm khoảng 20%.
Bác sĩ Hoài thông tin, rất hiếm trường hợp phình động mạch chậu biểu hiện triệu chứng, hầu hết đều được chẩn đoán tình cờ khi người bệnh khám vì nguyên nhân khác. Đến khi khối phình to lên, chèn ép hoặc có biến chứng bóc tách hay vỡ, người bệnh mới nhập viện thì phải đối mặt với nguy cơ biến chứng và tử vong cao (80% bệnh nhân vỡ túi phình động mạch chậu có nguy cơ tử vong), cục máu đông hình thành trong túi phình có thể làm tắc động mạch ngoại biên, liệt chi thận chí cắt chân.
Chỉ một số ít người cảm nhận được triệu chứng ở giai đoạn đầu, bao gồm đau lưng, đau bụng dưới, đau bẹn… nhưng dễ nhầm lẫn với các bệnh lý thần kinh, cơ xương khớp, tiêu hóa khác.
Yếu tố nguy cơ dẫn tới tình trạng phình động mạch chậu là người trên 60 tuổi, có bệnh nền tăng huyết áp hoặc rối loạn mỡ máu, hút thuốc lá. Để giảm rủi ro mắc bệnh, cần tránh xa thuốc lá, kiểm soát huyết áp và chỉ số cholesterol, duy trì lượng đường trong máu, giữ cân nặng khỏe mạnh, khám sức khỏe định kỳ.
*Tên bệnh nhân đã được thay đổi
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH