Trong 2 ngày 27-28/9/2025, Hội nghị Khoa học thường niên Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh 2025 với chủ đề “Tiên tiến – Hiện đại – Liên tục phát triển” đã diễn ra, thu hút khoảng 1.500 chuyên gia y tế, trong đó hơn 280 báo cáo viên đến từ các bệnh viện, viện nghiên cứu và trường đại học trong và ngoài nước.
Hội nghị quy tụ nhiều chuyên gia đầu ngành, những tên tuổi lớn đã và đang giữ vai trò quan trọng trong nền y học Việt Nam và khu vực châu Á. Riêng Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, có các bác sĩ hiện giữ vị trí Chủ tịch các hội chuyên ngành quốc gia, như: Hội Bệnh Mạch máu Việt Nam, Hội Giải phẫu bệnh – Tế bào bệnh học Việt Nam, Hội Hô hấp Việt Nam, Hội Vật lý trị liệu Việt Nam… Bên cạnh đó, nhiều bác sĩ khác đang đảm nhiệm vai trò Phó chủ tịch các hội lớn như Hội Tim mạch Việt Nam, Hội Y học Bà mẹ và Thai nhi TP.HCM… Nhiều đại biểu từng là lãnh đạo các cơ sở y tế tại Hà Nội, TP.HCM và trung ương.
Sự kiện khoa học quy mô lớn này có sự tham dự của đại diện Bộ Y tế, đại diện Bộ Khoa học & Công nghệ, Sở Y tế TP.HCM, Sở Khoa học & Công nghệ TP.HCM, Tổng Hội Y học Việt Nam, các hội y học chuyên ngành và các cơ quan chức năng trong nhiều lĩnh vực…
Phát biểu khai mạc, ThS Ngô Chí Dũng – Chủ tịch Hội đồng Quản trị Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh – nhấn mạnh Hội nghị Khoa học thường niên 2025 là sự kiện khẳng định uy tín chuyên môn và đóng góp khoa học nổi bật của hệ thống. Gần 20 năm qua, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh không ngừng mở rộng quy mô, nâng cao năng lực chuyên môn, đầu tư đồng bộ về cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại và quy tụ đội ngũ chuyên gia, bác sĩ trình độ cao. Viện Nghiên cứu Tâm Anh (TAMRI) thành lập năm 2023, là viện nghiên cứu đầu tiên thuộc khối bệnh viện tư, đóng vai trò hiện thực hóa các ý tưởng khoa học thành giải pháp ứng dụng. TAMRI đã hợp tác quốc tế với các đơn vị hàng đầu như Đại học Oxford, Viện Vi sinh Stanford (Mỹ), và vừa ký kết với Trung tâm Nghiên cứu ung thư quốc gia Nga. Hiện TAMRI vận hành 15 phòng lab đạt chuẩn quốc tế, 68 điểm nghiên cứu chuẩn GCP và triển khai hàng chục dự án, trong đó có 4 công nghệ chiến lược như: nhuộm hóa mô miễn dịch, phân lập tế bào ung thư lưu hành, định lượng kháng thể vi mảng và sản xuất tế bào gốc từ máu cuống rốn. TAMRI cũng đang phát triển phòng lab tiền lâm sàng chuẩn GLP–AAALAC và đẩy mạnh nghiên cứu vaccine, đặc biệt là vaccine mRNA trong điều trị ung thư.
“Chúng tôi trân trọng và đánh giá cao tâm huyết, trí tuệ, và sự sáng tạo không ngừng của đội ngũ bác sĩ, chuyên gia – những nhà khoa học góp phần kiến tạo thành tựu mới cho y học Việt Nam” ThS Ngô Chí Dũng khẳng định.
Đến tham dự hội nghị, TS.BS Nguyễn Ngô Quang – Cục trưởng Cục Khoa học Công nghệ và Đào tạo, Bộ Y tế, đánh giá cao về quy mô, chất lượng chuyên môn và định hướng công nghệ lõi của Hội nghị Khoa học thường niên 2025 của Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, phù hợp với chiến lược Bộ Y tế và Bộ Khoa học và Công nghệ đang thúc đẩy. Ông nhận định hội nghị là diễn đàn ý nghĩa cho giới khoa học y tế, nhất là trong bối cảnh Bộ Chính trị ban hành loạt Nghị quyết quan trọng (57, 59, 68, 72…) về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, hợp tác quốc tế và phát triển y tế tư nhân. Theo ông, các nghị quyết này tạo điều kiện thuận lợi để hệ thống y tế ngoài công lập, như Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh tăng cường đầu tư, phát huy tiềm lực khoa học, đóng góp vào chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Cục trưởng cũng đề nghị Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh tiếp tục tập trung vào ba trụ cột: Phát triển nhân lực, thu hút chuyên gia trong nước và quốc tế; Mở rộng hợp tác quốc tế, đón đầu công nghệ mới; Đầu tư hạ tầng, trang thiết bị hiện đại, mạnh dạn đón nhận các công nghệ đột phá.
“Chúng tôi ủng hộ những nỗ lực đổi mới và hợp tác quốc tế của Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, kỳ vọng nơi đây trở thành mô hình tiên phong trong y học đổi mới sáng tạo thời đại số”, TS.BS Nguyễn Ngô Quang nhấn mạnh.
Ở phiên toàn thể, bài báo cáo của TS.BS Chu Tấn Huy và ThS.BS.CKI Phương Lễ Trí – Giám đốc Điều hành Viện Nghiên cứu Tâm Anh về “Bối cảnh phát triển của vaccine điều trị ung thư: Từ phòng thí nghiệm đến thử nghiệm lâm sàng” đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học, giới chuyên môn. Bởi Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia có tỷ lệ tử vong do ung thư cao, mặc dù tỷ lệ mắc mới chỉ ở mức trung bình. Trong 48 quốc gia được khảo sát, Việt Nam xếp thứ 16 về tỷ suất mắc mới nhưng lại đứng thứ 10 về tỷ lệ tử vong. Trong khi đó, các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore có tỷ suất mắc ung thư thuộc nhóm cao nhất, với trên 250 ca trên 100.000 dân, nhưng nhờ hệ thống y tế hiệu quả, tỷ lệ tử vong của họ vẫn được kiểm soát tốt hơn so với Việt Nam.
Tại Việt Nam, năm 2022 ghi nhận khoảng 180.000 ca ung thư mới và 120.000 ca tử vong. Dự báo đến năm 2045, số ca mắc mới có thể vượt 292.000 ca và số ca tử vong lên tới hơn 208.000 ca, tức tăng khoảng 60%-70% so với hiện nay. Điều này đặt ra những thách thức lớn trong phát hiện sớm và điều trị. Dù điều trị ung thư đã có những bước tiến lớn, có những cuộc cách mạng cải thiện sức khỏe và sự sống còn của người bệnh từ phẫu thuật, xạ trị, hóa trị, liệu pháp nhắm trúng đích và liệu pháp miễn dịch. Thế nhưng, trong những thập kỷ qua, sự lựa chọn liệu pháp điều trị ung thư đã thay đổi đáng kể với sự ra đời của liệu pháp miễn dịch ung thư. Gần đây, vaccine điều trị ung thư (TCV) đã cho thấy kết quả đầy hứa hẹn bằng cách kích hoạt phản ứng tế bào T mạnh mẽ và lâu dài chống lại các tế bào ung thư. Tuy nhiên, để hiện thực hóa đầy đủ tiềm năng của TCV là một nỗ lực lâu dài và liên tục. Do đó, bài tổng quan này cung cấp cái nhìn toàn diện về vaccine TCV, trong suốt quá trình phát triển từ phòng thí nghiệm đến thử nghiệm lâm sàng. Mặc dù có những tiến bộ, kết quả thử nghiệm lâm sàng hiện tại với vaccine TCV vẫn còn khiêm tốn. Điều này phần lớn là do những thách thức đáng kể trong môi trường vi mô của khối u, khó khăn trong việc lựa chọn người bệnh phù hợp cho các thử nghiệm TCV và sự phức tạp trong sản xuất vaccine. Do đó, để cải thiện kết quả cho người bệnh, cộng đồng y khoa phải nhận ra những vấn đề phức tạp này và nỗ lực để khắc phục những hạn chế này.
PGS.TS.BS Trần Quang Bính, Giám đốc chuyên môn Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM cũng là Chủ tịch Hội đồng Khoa học hội nghị, cảnh báo tình trạng nhiễm nấm xâm lấn đang ngày càng tăng do lối sống và môi trường, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Ông đã trình bày báo cáo “Cập nhật khuyến cáo chẩn đoán và điều trị nhiễm nấm xâm lấn” thu hút sự quan tâm lớn của toàn hội trường. Trên thế giới, khoảng 6,5 triệu người mắc các bệnh do nấm xâm lấn, trong đó có tới 2,5 triệu ca tử vong, chiếm 68%. Các loại nấm nguy hiểm phổ biến gồm nhiễm Aspergillus xâm lấn (Aspergillus fumigatus), nhiễm Candida xâm lấn (Candida spp.), viêm phổi do Pneumocystis jirovecii, viêm màng não do Cryptococcal (Cryptococcus neoformans/gattii), nhiễm nấm Mucorales (Rhizopus, Mucor spp.)… Đặc biệt sau đại dịch COVID-19, nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, ghi nhận sự gia tăng nhiễm nấm Mucorales (hay còn gọi là “nấm đen”). Thông thường, nấm Mucorales sống trong đất, bụi, thực vật mục và phân động vật và hệ miễn dịch khỏe mạnh có thể chống lại chúng. Tuy nhiên, bệnh nhân đái tháo đường, từng mắc COVID-19 hoặc điều trị steroid dễ bị suy giảm miễn dịch, khiến nấm phát triển gây bệnh nghiêm trọng. Nấm có thể tấn công xoang, mắt, não… gây các triệu chứng như nghẹt mũi, chảy dịch máu, thủng vách ngăn mũi, sụp mi, liệt vận nhãn, giảm thị lực, đau đầu, buồn nôn; hoặc gây viêm phổi nhanh, hoại tử, ho ra máu… PGS. Trần Quang Bính cũng nhấn mạnh, điều trị nhiễm nấm xâm lấn cần phải cá thể hóa, dựa trên kinh nghiệm của bác sĩ và kết hợp các xét nghiệm, cận lâm sàng, hình ảnh chẩn đoán chuẩn xác với các tiêu chuẩn vàng mới đem lại hiệu quả điều trị cao…
Một trong những điểm nhấn nổi bật của hội nghị là việc giới thiệu các công nghệ y tế hiện đại hàng đầu thế giới đã được áp dụng tại Việt Nam. Đặc biệt, nhiều công nghệ đang triển khai tại Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh như robot và trí tuệ nhân tạo (AI) đã thu hút sự chú ý của giới chuyên môn trong chẩn đoán và điều trị những ca bệnh khó, phức tạp.
Trong lĩnh vực phẫu thuật có robot, robot Da Vinci Xi thế hệ mới vượt trội về công nghệ so với các phiên bản trước như Standard, S và Si, hỗ trợ thực hiện hơn 120 loại phẫu thuật phức tạp ở nhiều chuyên khoa như tiết niệu, thận học, tiêu hóa, lồng ngực – mạch máu, phụ khoa… Cánh tay robot nhỏ gọn hơn (chỉ 6cm), phù hợp vóc dáng người Việt, giảm va chạm và tổn thương mô, đảm bảo tính thẩm mỹ với vết mổ chỉ 8mm. Đây là robot thế hệ đầu tiên tích hợp tay cầm hàn và cầm máu, giúp cắt mô, xử lý chảy máu nhanh chóng, giảm mất máu và rút ngắn thời gian phục hồi, đặc biệt hiệu quả với bệnh nhân lớn tuổi hoặc có bệnh nền. Robot giúp thực hiện những ca mổ từng được coi là bất khả thi, mang lại kết quả an toàn, hiệu quả và phục hồi nhanh. Robot RA-TKA giúp thay toàn bộ khớp gối với độ chính xác cao, tối ưu hóa việc phục hồi trục cơ học, cắt xương chính xác hơn, đồng thời giảm tổn thương mô mềm, rút ngắn thời gian nằm viện và giúp người bệnh vận động sớm sau mổ. Trong khi đó, robot RATS hỗ trợ điều trị u trung thất – khu vực vốn khó tiếp cận bằng phương pháp mổ truyền thống. Với khả năng cung cấp hình ảnh 3D sắc nét, công cụ linh hoạt và giảm rung khi thao tác, robot này cho phép xử lý các khối u nằm sâu trong không gian hẹp một cách an toàn và hiệu quả. Robot Artis Pheno trong phòng mổ Hybrid ứng dụng trí tuệ nhân tạo tinh vi cho phép bác sĩ mổ giả lập để tính toán các phương án tối ưu nhất về hiệu quả và an toàn cho những ca phẫu thuật khó như phẫu thuật tim, bắc cầu tim mạch, đặt stent, thay khớp, can thiệp mạch máu với độ chính xác cao. Robot AI Modus V Synaptive chuyên phẫu thuật thần kinh – sọ não – cột sống. Đây là robot duy nhất tại Việt Nam hiện nay và mới chỉ có mặt tại 14 quốc gia trên thế giới. Robot AI này đã giúp các bác sĩ Tâm Anh phẫu thuật thành công ngoạn mục hàng trăm ca đột quỵ xuất huyết não, u não, u tủy sống, dị dạng mạch máu não, thoát vị đĩa đệm, gãy cột sống, trượt đốt sống… Hiệu quả vượt trội, vết mổ chỉ 1-2 cm, giảm 79% lượng máu mất, người bệnh ít đau và có thể đi lại chỉ sau 1-2 ngày, giảm 40% thời gian nằm viện. Chi phí thấp hơn 30-40 lần so với mổ tại Mỹ cùng công nghệ.
Tại hội nghị, các bác sĩ ngoại khoa của Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh công bố kết quả bước đầu ứng dụng 100 trường hợp phẫu thuật robot Da Vinci Xi trong lĩnh vực tiết niệu, lồng ngực, tiêu hóa… đã mở ra một hướng tiếp cận mới ít xâm lấn, khắc phục những hạn chế của nội soi truyền thống, đặc biệt trong các trường hợp có cấu trúc giải phẫu phức tạp.
PGS.TS.BS Vũ Lê Chuyên, Giám đốc Trung tâm Tiết niệu – Thận học – Nam khoa và TS.BS Nguyễn Hoàng Đức, Trưởng khoa Tiết niệu, Trung tâm Tiết niệu – Thận học – Nam khoa, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM, đã có bài nghiên cứu hồi cứu từ tháng 4 đến tháng 9/2025, ghi nhận 67 bệnh nhân tại khoa Tiết niệu được phẫu thuật bằng robot Da Vinci Xi với các chỉ định như cắt thận, cắt tuyến tiền liệt, tạo hình bể thận, u sau phúc mạc, u tuyến thượng thận và nạo hạch chậu. Tỷ lệ thành công đạt 96,2% và không ghi nhận trường hợp nào tai biến hay biến chứng nặng sau mổ. Thời gian nằm viện trung bình chỉ từ 2-7 ngày.
Tương tự, BS.CKII Trần Công Quyền, Phó khoa Ngoại Lồng ngực – Mạch máu, cho biết có 9 bệnh nhân (4 nam, 5 nữ) được phẫu thuật với robot Da Vinci Xi để cắt thùy phổi, cắt u trung thất hoặc tuyến ức. Kết quả cho thấy không có biến chứng hậu phẫu nghiêm trọng; chỉ một trường hợp cần truyền máu. Tất cả bệnh nhân đều được rút nội khí quản ngay tại phòng hồi tỉnh và phục hồi nhanh chóng, với thời gian nằm viện trung bình khoảng 4 ngày. Thành công bước đầu không chỉ khẳng định tính an toàn, hiệu quả của kỹ thuật mà còn mở ra tiềm năng chỉ định cho các ca phẫu thuật phức tạp khác. Kết quả khả quan này có được là cả hành trình nỗ lực của Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh đã mạnh dạn đầu tư ứng dụng công nghệ hiện đại, trở thành đơn vị tiên phong tại TP.HCM triển khai “siêu robot” Da Vinci Xi thế hệ mới nhất tại Đông Nam Á.
Cũng bàn về chủ đề robot, BS.CKI Trần Quốc Hoài và TS.BS Nguyễn Anh Dũng, Trưởng khoa Ngoại Lồng ngực – Mạch máu, có bài nghiên cứu “Phẫu thuật robot điều trị u trung thất: kinh nghiệm từ những ca đầu tiên tại Bệnh viện Tâm Anh TP.HCM”. U trung thất là thách thức lớn trong phẫu thuật do u thường gần các cấu trúc quan trọng, lại ở không gian hẹp. Mặc dù phẫu thuật nội soi lồng ngực có video hỗ trợ (VATS) đã cải thiện đáng kể kết quả so với mổ mở truyền thống. Gần đây, phẫu thuật có robot hỗ trợ (RATS) được áp dụng như một kỹ thuật ít xâm lấn với nhiều điểm ưu việt hơn, khắc phục các hạn chế của nội soi, cung cấp hình ảnh ba chiều sắc nét, với cổ tay dụng cụ linh hoạt, khả năng giảm rung, dễ điều khiển, có thể dễ dàng xử lý các u ở các vị trí khó, trong không gian hẹp. Nhằm nâng cao chất lượng điều trị, bổ sung thêm vào các lựa chọn điều trị u trung thất hiện có như mổ mở và nội soi nên Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM đã triển khai phẫu thuật robot trong điều trị u trung thất. Kết quả bước đầu cho thấy tất cả các ca phẫu thuật đều hồi phục tốt, không có biến chứng nghiêm trọng trong thời gian nằm viện. Cụ thể, có 6 trường hợp phẫu thuật robot điều trị u trung thất trước, 2 trường hợp có nhược cơ. Một trường hợp u lớn, cao, và dính với tĩnh mạch vô danh, robot đã thể hiện ưu thế rõ rệt giúp tiếp cận và bóc tách dễ dàng hơn, vốn rất thách thức đối với các phương pháp ít xâm lấn truyền thống.
Mổ robot Da Vinci Xi ở lĩnh vực tiêu hóa, TS.BS Đỗ Minh Hùng, Giám đốc Trung tâm Nội soi và Phẫu thuật Nội soi Tiêu hóa, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM, cho biết chỉ trong thời gian ngắn, Trung tâm đã ứng dụng robot Da Vinci Xi phẫu thuật thành công hơn 20 ca ung thư tiêu hóa phức tạp như ung thư thực quản, ung thư dạ dày, ung thư trực tràng, phẫu thuật tuyến tụy, gan, thoát vị hoành… Người bệnh ít đau, ít chảy máu, hồi phục nhanh.
Với công nghệ cao và trí tuệ nhân tạo (AI), Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh cũng đang ứng dụng mạnh mẽ trong chẩn đoán hình ảnh và hỗ trợ sinh sản. Điển hình hệ thống Somatom Force VB30 (Đức) là một trong những máy CT hiện đại nhất hiện nay, cho phép quét toàn thân chỉ trong 1-2 giây, tái tạo hơn 100.000 lát cắt, phát hiện các tổn thương cực nhỏ và giảm tới 85% liều tia X, phù hợp cho cả trẻ nhỏ và người cao tuổi. Máy MRI 3 Tesla SIGNA™ Hero (Mỹ) cũng giúp tăng tốc độ chụp nhanh hơn 3-4 lần so với thông thường, cho phép khảo sát toàn diện cơ thể mà không sử dụng bức xạ, đảm bảo an toàn.
Trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh đang vận hành mô hình phòng lab đạt chuẩn ISO 5, đồng bộ máy móc thiết bị hiện đại như Hệ thống nuôi cấy phôi time-lapse tích hợp AI hỗ trợ đánh giá chất lượng phôi nhằm tối ưu hóa tỷ lệ thành công trong thụ tinh ống nghiệm. Đây là một trong những mô hình tiên tiến hàng đầu hiện nay tại Việt Nam. Nhờ đó, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TPHCM vừa được Tổ chức kỷ lục châu Á xác lập Kỷ lục “Bệnh viện đầu tiên tại châu Á có Hệ thống Lab phôi học đạt chuẩn ISO 5 theo mô hình ‘lab trong lab’, ứng dụng trong thao tác trên giao tử và nuôi cấy phôi”. Theo thống kê từ năm 2021 – 2024 tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM, kết quả có thai cộng dồn trên tất cả các nhóm bệnh nhân tăng dần qua các năm: trung bình lên tới 80,1%.
Đặc biệt có đến 3 giáo sư Đài Loan, Trung Quốc tham gia báo cáo ở phiên chuyên đề Y học bào thai, trong đó 2 người đồng thời giữ vai trò chủ tọa. Các chuyên gia trong và ngoài nước cùng trao đổi các kỹ thuật tiên tiến trong y học bào thai cho phép chẩn đoán, can thiệp và điều trị cho thai nhi ngay từ trong bụng mẹ. Các giáo sư nước ngoài chia sẻ cách phẫu thuật từ trong tử cung cho thai nhi bị dị tật hở đốt sống, cách xử trí hội chứng truyền máu song thai, can thiệp bào thai cho những trường hợp thai chậm tăng trưởng có chọn lọc và cập nhật can thiệp tim thai. Còn các nhà khoa học Việt Nam, gồm BS.CKI Lê Quang Hưng và TS.BS Nguyễn Hoàng Long, Phó giám đốc Trung tâm Y học bào thai, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh trình bày nghiên cứu chuyên sâu về hiệu quả giải trình tự gen (Exome Sequencing – ES) trong chẩn đoán trước sinh ở thai kỳ có bất thường hình thái…
Ở phiên chuyên đề Ung thư/Ung bướu, PGS.TS.BS Hoàng Anh Vũ, Trưởng đơn vị Sinh học phân tử – Di truyền, khoa Huyết học, Bệnh viện Chợ Rẫy; kiêm Giám đốc Trung tâm Y sinh học phân tử, Đại học Y Dược TP.HCM, có bài báo cáo thú vị ctDNA – dấu ấn sinh học đầy hứa hẹn trong chẩn đoán ung thư. Theo PGS. Vũ, ung thư là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong toàn cầu, đồng thời là thách thức lớn đối với ngành y tế. Việc phát hiện, theo dõi và đánh giá đáp ứng điều trị ung thư hiện nay vẫn dựa nhiều vào mô khối u và các phương tiện hình ảnh học. Tuy nhiên, sinh thiết mô truyền thống có những hạn chế như xâm lấn, không phản ánh toàn bộ biến đổi gen trong khối u, khó thực hiện lặp lại nhiều lần. Trong bối cảnh đó, DNA khối u lưu hành (ctDNA) nổi lên như một loại mẫu hứa hẹn, giúp phát hiện, giám sát và cá thể hóa điều trị ung thư. Các nghiên cứu cho thấy ctDNA có thể giúp phát hiện các đột biến gen đặc hiệu, cung cấp thông tin về kiểu gen của khối u mà không cần lấy mô trực tiếp. Sử dụng ctDNA cũng đạt độ nhạy và đặc hiệu cao trong phát hiện tái phát sớm, theo dõi đáp ứng điều trị và phát hiện kháng thuốc. Đến nay, ctDNA đã được đưa vào ứng dụng trong nhiều loại ung thư khác nhau. Trong ung thư phổi, ctDNA giúp phát hiện các đột biến gen quan trọng (như EGFR, ALK, ROS1), hỗ trợ chẩn đoán, lựa chọn điều trị nhắm trúng đích trong trường hợp không có sẵn mô; ngoài ra, ctDNA còn giúp theo dõi đáp ứng điều trị, phát hiện sớm đột biến kháng thuốc (ví dụ T790M). Trong ung thư tuyến tiền liệt, ctDNA được lựa chọn thay thế cho xét nghiệm HRR trên mẫu mô vốn có tỷ lệ thất bại cao (>30%)… Tuy nhiên, việc ứng dụng ctDNA vào thực hành thường quy vẫn còn một số thách thức lớn cần được giải quyết, như độ nhạy còn thấp ở giai đoạn sớm của bệnh; kỹ thuật đòi hỏi trang thiết bị và chi phí cao; cần chuẩn hóa quy trình xét nghiệm đạt mức chấp nhận trên lâm sàng.
Ở phiên chuyên đề Tim mạch Can thiệp, công nghệ chụp cắt lớp quang học mạch vành (OCT) cũng được ThS.BS Phạm Hoàng Trọng Hiếu, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM chia sẻ như một giải pháp giúp xác định chính xác các mảng xơ vữa nguy cơ cao – thủ phạm gây nhồi máu cơ tim, từ đó mở ra phương pháp điều trị chính xác và hiệu quả hơn cho bệnh nhân tim mạch.
Những ca bệnh hiếm gặp và phức tạp cũng được các chuyên gia, bác sĩ có dịp chia sẻ tại hội nghị, thể hiện trình độ chuyên môn cao, năng lực xử lý tình huống phức tạp và tinh thần tiên phong của đội ngũ y bác sĩ Việt Nam, không ngại tiếp cận các ca bệnh khó, sẵn sàng áp dụng kỹ thuật mới để cứu người. Đơn cử như ca bệnh u trung mô Phosphaturic; ca bệnh Madelung… Và đặc biệt là ca thay van động mạch chủ qua da bằng kỹ thuật valve-in-valve với van tự bung Pulsata ở bệnh nhân sau sửa chữa tứ chứng Fallot (một dạng bệnh tim)… lần đầu tiên được công bố tại Việt Nam do BS.CKII Vũ Năng Phúc, Trưởng khoa Tim bẩm sinh, Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM chia sẻ.
Hội nghị còn tổ chức các hội thảo thực hành chuyên sâu (workshop) ngay tại chỗ, đào tạo kỹ thuật mới cho bác sĩ tuyến dưới, góp phần thu hẹp khoảng cách chuyên môn giữa các tuyến. Đặc biệt, đội ngũ điều dưỡng, kỹ thuật viên, dược sĩ, kỹ sư công nghệ thông tin… cũng được tạo cơ hội trình bày báo cáo và cập nhật kiến thức, thể hiện đúng tinh thần “học tập suốt đời” của ngành y.
PGS.TS.BS Trần Quang Bính, Giám đốc chuyên môn Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM, Chủ tịch Hội đồng Khoa học của hội nghị, chia sẻ hội nghị lần này thể hiện vai trò của y tế tư nhân ngày càng hội nhập. Khi những công nghệ tiên tiến nhất thế giới đã có mặt tại Việt Nam, khi bác sĩ Việt đã thực hiện được những kỹ thuật phức tạp ngang tầm khu vực, và khi mô hình đào tạo – nghiên cứu – điều trị cùng phát triển, sẽ sớm thúc đẩy nền y học Việt Nam bứt phá, tự chủ và hùng cường trong tương lai.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH