Lao hạch và lao phổi đều do vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis gây ra. Khi vi khuẩn tấn công vào phổi gây lao phổi, tuy nhiên chúng cũng có thể xâm nhập đến những bộ phận khác, tấn công các hạch bạch huyết gây ra lao hạch. Mặc dù cùng do 1 chủng vi khuẩn gây ra nhưng lao hạch và lao phổi có nguyên nhân, triệu chứng, khả năng lây truyền và cách điều trị khác nhau. Bài viết sau sẽ thông tin sự khác biệt giữa lao hạch và lao phổi, đồng thời cho thấy tầm quan trọng của chẩn đoán và điều trị kịp thời ngăn ngừa biến chứng của bệnh.

Lao hạch thường là biến chứng của lao phổi, khi vi khuẩn lao xâm nhập vào các hạch bạch huyết gây viêm.
Lao hạch là tình trạng sưng hạch bạch huyết ở cổ do vi khuẩn lao. Người bệnh thường có biểu hiện 1 hoặc nhiều hạch sưng to, tập hợp thành 1 chuỗi, thường không đau hoặc chỉ hơi đau, có thể đổi màu hoặc trùng màu với da. Lao hạch khá hiếm, chỉ có khoảng 5% các trường hợp lao có triệu chứng được chẩn đoán là lao hạch. (1)
Bệnh lao phổi (Tuberculosis hay TB) là bệnh truyền nhiễm có thể gây nhiễm trùng ở phổi hoặc các mô khác do trực khuẩn lao gây ra. Bệnh thường ảnh hưởng đến phổi, nhưng cũng có thể ảnh hưởng đến các cơ quan khác như cột sống, não hoặc thận. Không phải tất cả những người bị nhiễm lao đều bị bệnh lao. (2)
Nếu người bệnh bị nhiễm vi khuẩn nhưng không có triệu chứng gọi là bệnh lao phổi không hoạt động hoặc nhiễm lao tiềm ẩn (LTBI). Nếu người bệnh phát triển các triệu chứng và có khả năng lây nhiễm, người bệnh bị lao hoạt động hoặc bệnh lao (TB). Ba giai đoạn của bệnh lao là:
Lao hạch và lao phổi là 2 dạng bệnh lao khác nhau do cùng 1 chủng vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây ra.
Mycobacterium tuberculosis là vi khuẩn gây bệnh lao, gây ra hầu hết các trường hợp bệnh lao hạch ở người lớn. Khi hít phải vi khuẩn vào phổi, vi khuẩn có khả năng di chuyển đến các hạch bạch huyết ở cổ gây ra lao hạch. Người nhiễm HIV, người bị suy dinh dưỡng hoặc các bệnh gây suy giảm hệ miễn dịch, thuốc ức chế miễn dịch, 1 số bệnh tự miễn và 1 số bệnh ung thư làm tăng nguy cơ mắc lao hạch. (3)
Bệnh lao phổi cũng do vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây ra. Vi khuẩn lây lan qua không khí và thường lây nhiễm phổi, nhưng cũng có thể lây nhiễm các bộ phận khác của cơ thể. Tuy bệnh lao có tính lây nhiễm, nhưng lại không dễ lây lan.
Triệu chứng điển hình nhất do lao hạch gây ra chính là hạch bạch huyết ở cổ sưng to. 1 số người bị lao hạch cũng có thêm các triệu chứng nhiễm trùng do vi khuẩn, bao gồm: (4)
Người nhiễm vi khuẩn lao nhưng không mắc bệnh lao sẽ không có biểu hiện triệu chứng. Tuy nhiên vẫn có thể cho ra phản ứng dương tính với bài test da hoặc xét nghiệm máu. Người mắc bệnh lao hoạt động có thể biểu hiện bất kỳ triệu chứng nào sau đây:

Tuy do cùng 1 chủng vi khuẩn gây ra nhưng biến chứng của bệnh lao hạch và lao phổi khá khác nhau.
Đôi khi tình trạng sưng do lao hạch có thể vỡ ra và gây rò rỉ dịch, gây ra xoang hoặc vết thương hở trên da. Nếu không được điều trị đúng cách có thể để lại sẹo.
Nếu bệnh nhân lao phổi không tuân thủ điều trị hoặc dùng thuốc sai phác đồ, bệnh lao phổi sẽ gây nguy hiểm tới tính mạng bởi những biến chứng sau:
Để chẩn đoán chính xác lao phổi và lao hạch, bác sĩ sẽ thăm khám lâm sàng, kết hợp cùng kết quả xét nghiệm để đưa ra chẩn đoán phù hợp nhất.
Sau khi thăm khám lâm sàng, bác sĩ sẽ đề nghị người bệnh thực hiện các xét nghiệm bổ sung trong trường hợp cần thiết:

Có 2 loại xét nghiệm sàng lọc bệnh lao: Xét nghiệm tiêm dưới da xác định bệnh lao (TST) và xét nghiệm máu, được gọi là xét nghiệm giải phóng interferon gamma (IGRA).
Đối với TST, bác sĩ sẽ tiêm 1 lượng nhỏ chất gọi là dẫn xuất protein tinh khiết dưới da cẳng tay. Sau 2 – 3 ngày người bệnh quay lại bệnh viện để bác sĩ kiểm tra vị trí tiêm và cho ra kết quả. Đối với IGRA, bác sĩ sẽ lấy máu và gửi mẫu đến phòng xét nghiệm. Các xét nghiệm khác để xác định xem tình trạng nhiễm trùng có đang hoạt động hay phổi có bị nhiễm trùng hay không bao gồm:
Vì lao hạch và lao phổi do cùng 1 chủng vi-rút gây ra nên sẽ sử dụng các loại thuốc giống nhau:
Bác sĩ sẽ kê đơn thuốc kháng sinh để điều trị lao hạch. Người bệnh cần sử dụng thuốc từ vài tháng đến 1 năm. Các loại thuốc kháng sinh có thể điều trị các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn lao bao gồm:
Những trường hợp nghiêm trọng sẽ được bác sĩ tiến hành phẫu thuật để cắt bỏ hạch nhiễm lao.
Bác sĩ thường kê đơn thuốc điều trị lao phổi gồm:
Tuân thủ đúng phác đồ điều trị của bác sĩ. Tuyệt đối không tự ý ngưng thuốc hoặc tăng giảm liều lượng thuốc khi chưa có chỉ định từ bác sĩ. Các dạng bệnh lao đã trở nên kháng thuốc sẽ cần kết hợp nhiều loại thuốc khác nhau để điều trị bệnh.

Tuân thủ các hướng dẫn phòng ngừa sau sẽ giúp giảm nguy cơ mắc lao hạch và lao phổi:
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Tuy lao hạch và lao phổi đều do 1 loại vi khuẩn gây ra nhưng lại có nhiều điểm khác nhau rõ rệt. Lao phổi lây lan trực tiếp qua đường hô hấp, trong khi đó lao hạch không có khả năng lây nhiễm cho người xung quanh. Khi gặp bất kỳ triệu chứng bất thường nào trên cơ thể, người bệnh cần đến khám bác sĩ ngay để ngăn ngừa biến chứng cho bản thân và hạn chế lây bệnh trong cộng đồng.