
Dây rốn là một cấu trúc mềm dẻo, cuộn tròn cung cấp oxy và chất dinh dưỡng cho thai nhi trong thời kỳ mang thai. Dây rốn đạt được hình dạng cuối cùng vào tuần thứ 12 của thai kỳ và thường chứa hai động mạch và một tĩnh mạch, tất cả đều được nhúng trong thạch Wharton. Cùng tìm hiểu rõ hơn về cấu tạo, chức năng và các vấn đề thường gặp ở dây rốn qua bài viết.

Dây rốn đi vào thai nhi qua bụng, tại điểm mà (sau khi tách ra) sẽ trở thành rốn. Dây rốn là một cấu trúc dạng ống mềm dẻo đóng vai trò như một đường dây liên lạc giữa mẹ và thai nhi trong suốt thai kỳ. Nó cho phép oxy và chất dinh dưỡng chảy đến thai nhi và mang đi các chất thải.
Sau khi em bé chào đời, bé sẽ không còn cần dây rốn nên chúng sẽ được cắt đi, để lại một đoạn ngắn trên bụng bé, được gọi là gốc rốn. Gốc rốn sẽ tự khô lại và rụng trong vòng vài tuần sau khi sinh. (1)
Dây rốn hình thành trong tử cung của người mẹ trong tam cá nguyệt đầu tiên của thai kỳ. Nó kết nối thai nhi đang phát triển với nhau thai, là một cơ quan tạm thời gắn vào thành tử cung của người mẹ.
Giải đáp cho thắc mắc dây rốn nối vào đâu, bác sĩ BS.CKI Nguyễn Văn Toản, khoa Sơ sinh, BVĐK Tâm Anh Hà Nội cho biết dây rốn thường bám vào giữa nhau thai ở một đầu và bụng của thai nhi (tại vị trí sau này trở thành rốn của thai nhi) ở đầu kia.
Trong thai nhi, tĩnh mạch rốn hướng về gan, nơi nó chia thành 2 nhánh. Một trong những nhánh này hợp nhất với tĩnh mạch cửa, dẫn máu vào gan. Nhánh thứ hai (được gọi là ống tĩnh mạch ) không đi qua gan và đổ vào tĩnh mạch chủ dưới, dẫn máu về tim. Hai động mạch rốn phân nhánh từ động mạch chậu trong và đi qua hai bên bàng quang vào dây rốn, và trở lại nhau thai.
Hình dạng cấu tạo dây rốn bình thường có một tĩnh mạch và hai động mạch có hình dạng xoắn ốc, giống như sợi dây thừng. Dây rốn của con người có tám dạng. Dạng phổ biến là 2 động mạch đi theo hình xoắn ốc xung quanh 1 tĩnh mạch rốn ở trung tâm.

Chiều dài trung bình của dây rốn là 50-60cm ở trẻ sơ sinh đủ tháng bình thường. Chiều dài dây rốn là một chỉ số về hoạt động của thai nhi và phụ thuộc vào độ căng do thai nhi di chuyển tự do, chủ yếu trong tam cá nguyệt thứ hai.
Nguồn gốc của dây rốn ở một khu vực nằm ở 1/3 dưới của phôi thai được gọi là mào nguyên thủy. Dây rốn bắt đầu ở phần gần tại miền lõi niệu quản. Từ bốn đến sáu tuần, khi đĩa phôi có hình trụ, dây rốn phát triển trong khi hợp nhất với nhau thai và các mạch máu của nó. Dây rốn dài ra khỏi nhau thai, tăng đường kính và hình thành các mạch máu dây rốn.
Dây rốn trung bình phát triển, dài ra ở giữa và có ba hoặc bốn vòng xoắn ở đầu thai nhi với một phần thẳng hơn ở giữa và ba hoặc bốn vòng xoắn về phía đầu nhau thai. Dây rốn không có nguồn gốc từ nhau thai mà là từ thai nhi. (2)
Dây rốn có bao nhiêu mạch máu? Cấu tạo dây rốn phát triển đầy đủ thường chứa hai động mạch rốn, một tĩnh mạch rốn, phần còn lại của màng ối, tất cả đều được nhúng trong thạch Wharton và được bao quanh bởi một lớp màng ối.
Động mạch và tĩnh mạch rốn không giống như các động mạch và tĩnh mạch tương ứng ở phần còn lại của cơ thể thai nhi vì tĩnh mạch rốn vận chuyển máu có oxy đến tim thai nhi trong khi các động mạch đưa máu thiếu oxy trở lại nhau thai. Thành động mạch rốn không có màng đàn hồi bên trong và bên ngoài và màng ngoài tim có trong các động mạch khác được thay thế bằng mô liên kết nhầy. Tĩnh mạch rốn có lớp cơ dày với các sợi cơ trơn tròn, dọc và xiên xen kẽ cũng như màng đàn hồi bên trong.
Hai động mạch rốn thường tạo thành một vòng xoắn hình trụ xung quanh tĩnh mạch rốn. Dây rốn bình thường có một vòng xoắn trên mỗi 5cm chiều dài dây rốn. Dây rốn có thể phát triển tới 40 vòng xoắn và có thể có các phần thẳng hoặc đảo ngược hướng xoắn ở các đoạn khác nhau.
Trong hầu hết các trường hợp, động mạch rốn xoắn qua tĩnh mạch, tuy nhiên, trong 4,2% trường hợp, tĩnh mạch có thể xoắn quanh động mạch thẳng. Các vòng xoắn của dây rốn quay sang phải trong khoảng 90% các trường hợp và quay sang trái trong các trường hợp còn lại. Xoắn ốc được cho là do các lớp cơ xoắn ở thành động mạch rốn. Tuy nhiên, chuyển động xoay của thai nhi, sự bất đối xứng về kích thước và tốc độ tăng trưởng của động mạch rốn và các cơn co thắt không đối xứng của tử cung cũng được cho là nguyên nhân gây ra xoắn dây rốn.
Dây rốn đóng một số vai trò thiết yếu trong sự phát triển của thai nhi. Chức năng chính của nó là:
Dây rốn quấn cổ một hoặc nhiều vòng thai nhi rất phổ biến và xảy ra ở khoảng 15-35% thai kỳ. Thông thường, dây rốn quấn cổ không ảnh hưởng đến kết quả thai kỳ. Tuy nhiên, một số loại dây rốn quấn cổ có thể gây ra rủi ro cho em bé.

Dây rốn có thể có quá nhiều cuộn (xoắn quá mức). Nguyên nhân có thể bao gồm những thay đổi về lưu lượng máu hoặc một số chuyển động của thai nhi. Xoắn dây rốn bất thường đôi khi liên quan đến các biến chứng khi mang thai.
Sa dây rốn là tình trạng dây rốn bị sa ra khỏi tử cung cùng hoặc trước khi em bé chào đời. Mối lo ngại về sa dây rốn là áp lực lên dây rốn từ em bé sẽ làm giảm lưu lượng máu đến em bé. Tình trạng này thường xảy ra trong quá trình chuyển dạ nhưng có thể xảy ra bất cứ lúc nào sau khi vỡ màng ối. Sự chèn ép dây rốn dẫn đến co mạch và tình trạng thiếu oxy ở thai nhi, có thể dẫn đến tử vong hoặc khuyết tật của thai nhi nếu không được chẩn đoán và xử trí nhanh chóng.
Dây rốn bám mép là một loại bất thường của dây rốn trong thai kỳ. Khi này, thay vì chèn vào giữa nhau thai, dây rốn sẽ bám vào mép. Tình trạng này có thể khiến thai nhi phát triển chậm hơn. Tuy nhiên, thường thì dây rốn bám mép không gây nguy hiểm cho thai kỳ.
Dây rốn bám mép thường gặp hơn ở các ca sinh đôi (sinh đôi, sinh ba, v.v.) so với các ca mang thai chỉ có một em bé. Tỷ lệ xảy ra dao động từ 2% đến 25% các ca mang thai, trong đó các ca mang thai đơn (một em bé) ở mức thấp và các ca sinh đôi (nhiều hơn một em bé) ở mức cao trong phạm vi này.
Dây rốn bám màng là một biến chứng thai kỳ xảy ra khi dây rốn của thai nhi không bám vào nhau thai đúng cách. Nhau thai là một cơ quan trong tử cung (tử cung) của bạn hình thành trong quá trình mang thai. Nó cho phép cơ thể bạn chia sẻ chất dinh dưỡng với thai nhi. Dây rốn kết nối thai nhi với nhau thai để việc chia sẻ có thể diễn ra.
Khi dây rốn bám màng, các mạch máu từ dây rốn phải di chuyển xa hơn nhiều để lấy chất dinh dưỡng từ nhau thai và chúng phải di chuyển mà không có sự bảo vệ của thạch Wharton. Nếu không dễ dàng tiếp cận các chất dinh dưỡng của nhau thai, thai nhi có thể phát triển chậm hơn. Nếu không có lớp đệm từ thạch Wharton, các mạch máu lộ ra từ dây rốn có nhiều khả năng bị vỡ và chảy máu.
Nang dây rốn là tình trạng các túi dịch (u nang) có thể hình thành trong dây rốn. Chúng thường vô hại nhưng có thể chèn ép vào dây rốn và làm giảm lưu lượng máu.
Khi đủ tháng, dây rốn có chiều dài trung bình là 50-60 cm. Chiều dài dây rốn bình thường có thể dao động từ 30cm-100cm, dưới 30cm được coi là ngắn.
Dây rốn quá dài có thể liên quan đến sa tử cung, dây rốn quấn quanh cổ thai nhi, rối loạn, đau đớn và thai chết.
Mặt khác, dây rốn rất ngắn có thể liên quan đến việc thai nhi chậm xuống, nhau thai tách sớm, hạn chế tăng trưởng, dị tật bẩm sinh, thai nhi đau đớn và tử vong.
Động mạch rốn đơn là khi dây rốn chỉ có một động mạch (thay vì hai) và một tĩnh mạch. Đây có thể là dấu hiệu của tình trạng di truyền như hội chứng ba nhiễm sắc thể và đôi khi liên quan đến những thay đổi về cấu trúc của các cơ quan của thai nhi như tim.
Đứt mạch máu dây rốn là một tình trạng hiếm gặp và nghiêm trọng có thể xảy ra trong quá trình chuyển dạ, dẫn đến những hậu quả bất lợi cho thai nhi trước cũng như sau khi sinh. Chẩn đoán và can thiệp kịp thời là rất quan trọng để cải thiện cơ hội thành công.
Các vấn đề khác cũng có thể xảy đối với rốn trẻ bao gồm: dây rốn thắt nút, rốn bị chảy máu, Vasa previa (một hoặc nhiều mạch máu từ dây rốn hoặc nhau thai đi qua cổ tử cung)… (4)
Ngay sau khi sinh, gốc rốn thường có màu trắng và bóng và có thể hơi ẩm. Khi gốc rốn khô và lành, nó có thể chuyển sang màu nâu, xám và cuống rốn (cùng với kẹp) thường rụng sau khoảng 5 đến 14 ngày. Nó lành lại và hình thành nên rốn của bé.

Đôi khi trước khi rụng, gốc rốn có thể rỉ ra một chút dịch. Nó có thể để lại vết hằn trên quần áo của bé.
Khi cuống rốn rụng, ở một số trẻ có thể xuất hiện một chút máu chảy. Điều này là bình thường và sẽ nhanh chóng dừng lại.
Lưu ý: Không kéo cuống rốn ra, ngay cả khi nó có vẻ dễ dàng. Việc kéo nó ra có thể làm chậm quá trình lành vết thương và gây sẹo. Ngoài ra, không tháo kẹp nó sẽ tự rơi ra cùng với cuống rốn.
Lưu trữ máu dây rốn là quá trình thu thập các tế bào gốc có khả năng cứu sống từ dây rốn và nhau thai và lưu trữ. Máu dây rốn chứa đầy tế bào gốc, chúng có thể điều trị ung thư, các bệnh về máu như thiếu máu và một số rối loạn hệ thống miễn dịch, làm gián đoạn khả năng tự vệ của cơ thể.
Máu dây rốn dễ thu thập và có lượng tế bào gốc nhiều gấp 10 lần so với máu thu thập từ tủy xương. Tế bào gốc từ máu dây rốn hiếm khi mang bất kỳ bệnh truyền nhiễm nào và có khả năng bị đào thải chỉ bằng một nửa so với tế bào gốc trưởng thành.
Trước đây, việc cắt dây rốn ngay sau khi sinh là một thông lệ phổ biến nhưng hiện nay các hướng dẫn cho biết việc kẹp dây rốn chậm sẽ tốt hơn cho em bé. Điều này có nghĩa là phải đợi cho đến khi dây rốn ngừng đập và chuyển sang màu trắng trước khi cắt. Không nên kẹp dây rốn sớm hơn 1 phút sau khi sinh.
Dây rốn bị đứt sớm là một biến chứng hiếm gặp nhưng nghiêm trọng của quá trình sinh nở. Dây rốn bị đứt trong khi sinh có thể gây tử vong hoặc tổn thương não ở trẻ sơ sinh. Việc đứt dây rốn thường xảy ra do những nguyên nhân như sự chèn ép dây rốn do mạch máu tiền đạo hoặc sa tử cung và dây rốn yếu đi do nhiễm trùng. Hầu hết các trường hợp đứt dây rốn đều xảy ra trong quá trình sinh nở, không phải khi em bé đang phát triển trong tử cung của mẹ.
Nếu có thêm những thắc mắc về dây rốn hoặc gặp phải các vấn đề thường gặp liên quan đến dây rốn có thể liên hệ đến BVĐK Tâm Anh để được các chuyên gia giải đáp và trợ giúp.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Bên trên là thông tin về cấu tạo, chức năng và các vấn đề thường gặp ở dây rốn trẻ. Hy vọng qua những chia sẻ trong bài sẽ giúp bạn kiểm soát tốt các tình trạng có thể xảy ra với rốn khi mang thai nếu không may gặp phải và biết cách chăm sóc rốn trẻ sau sinh.