Bệnh đau dây thần kinh sinh ba có tỷ lệ ca mắc ước tính khoảng 4,5/100.000 người. Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở nhóm trung niên và người già. Tỷ lệ nữ chiếm hơn 60% các trường hợp mắc bệnh. Dẫu bệnh không gây ra vấn đề sức khỏe nghiêm trọng nhưng ảnh hưởng đến chất lượng sống của người bệnh. Do đó, người bệnh cần được khám, chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Tư vấn chuyên môn BS.CKI Trần Minh Thiệu – Bác sĩ Trung tâm Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh – TP.HCM
Đau dây thần kinh sinh ba (Trigeminal neuralgia – TN) còn được gọi là dây thần kinh tam thoa hay dây thần kinh sọ não V (một trong những dây thần kinh phân bố rộng rãi nhất ở đầu) là tình trạng đau đớn, mãn tính liên quan đến dây thần kinh sinh ba.
Cơn đau có thể xuất hiện khi bị kích thích nhẹ lên mặt như đánh răng, cạo râu, nhai thức ăn, trang điểm… Cảm giác giống như bị điện giật hoặc bị vật nhọn đâm vào mặt. Khởi phát bằng những cơn đau ngắn, nhẹ, theo thời gian, cơn đau dữ dội, kéo dài và thường xuyên hơn. Đau xuất hiện ở một bên mặt rồi lan dọc theo xương gò má, mũi, môi trên, các răng trên và/hoặc lan xuống phần dưới của xương gò má, môi và xương hàm dưới. Khu vực trán và ổ mắt ít gặp hơn. Hầu hết những người gặp tình trạng này đều trải qua các triệu chứng theo chu kỳ: cơn đau đến và đi trong nhiều ngày hoặc vài tuần, sau đó giảm dần. Trong một số trường hợp, tình trạng bệnh trở nên nặng hơn và cơn đau xuất hiện thường xuyên hơn.
Không có xét nghiệm cụ thể cho tình trạng TN, vì vậy việc chẩn đoán có thể mất nhiều thời gian. Điều trị tùy thuộc vào nguyên nhân và mức độ nghiêm trọng của cơn đau. Một số loại thuốc có sẵn giúp giảm đau và giảm số lượng cơn đau nhưng tình trạng nặng hơn sẽ cần phải phẫu thuật.
Đau dây thần kinh sinh ba có thể chia làm hai dạng:
Cấu tạo của dây thần kinh sinh ba gồm 3 phần: cảm giác, vận động và các nhánh nhỏ.
Dây thần kinh sinh ba là một trong 12 cặp dây thần kinh gắn liền với não. Có hai dây thần kinh sinh ba riêng biệt, nằm ở mỗi bên của khuôn mặt. Các dây thần kinh này chịu trách nhiệm mang lại cảm giác đau ở mặt và những cảm giác khác. Mỗi dây thần kinh có ba nhánh dẫn truyền cảm giác từ nhánh mắt (nhanh trên), nhánh hàm trên (nhánh giữa) và nhánh hàm dưới (nhánh dưới) của khuôn mặt, khoang miệng, đến não.
Nhiều hơn một nhánh thần kinh có thể bị ảnh hưởng bởi rối loạn này. Hiếm khi, tình trạng đau xảy ra ở cả hai bên mặt cùng lúc (được gọi là đau dây thần kinh sinh ba hai bên) mà đau vào các thời điểm khác nhau.
Đau dây thần kinh sinh ba có thể đến từ nhiều nguyên nhân:
Triệu chứng đau của TN có thể xuất hiện theo từng cơn với cảm giác co thắt mạnh, giống như điện giật. Đau thường xảy ra ở một bên mặt và có thể do âm thanh hoặc xúc giác gây ra. Đau cũng có thể được kích hoạt bởi các hành động thường ngày, bao gồm:
Một đợt đau có thể kéo dài theo ngày, tuần hoặc tháng, sau đó chuyển sang giai đoạn thuyên giảm.
Tình trạng bệnh có thể tiến triển, với các cơn đau ngày càng nghiêm trọng và tần suất dày hơn. Trong một số trường hợp, cơn đau còn kèm theo cảm giác nhức nhối liên tục.
Đau TN xảy ra thường xuyên nhất ở những người trên 50 tuổi, mặc dù nó có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, kể cả trẻ sơ sinh. Khả năng TN do đa xơ cứng tăng lên khi nó xảy ra ở người trẻ. Tỷ lệ mắc mới là khoảng 12 trên 100.000 người mỗi năm; rối loạn này phổ biến hơn ở phụ nữ so với nam giới.
Chẩn đoán TN chủ yếu dựa trên các yếu tố: tiền sử của người bệnh, các triệu chứng, kết quả khám sức khỏe và thần kinh. Điều này nhằm xác định phần nào của dây thần kinh sinh ba đang bị ảnh hưởng. Bác sĩ cũng sẽ chạm vào các bộ phận khác nhau trên khuôn mặt của bạn để xác định vị trí của cơn đau.
Các rối loạn khác gây đau mặt nên được loại trừ trước khi chẩn đoán TN, đó là:
Do các triệu chứng thường trùng lặp và có nhiều nguyên nhân gây đau nên gây khó khăn cho việc chẩn đoán chính xác bệnh. Tuy nhiên, việc tìm ra nguyên nhân gây đau là rất quan trọng vì cách thức điều trị sẽ khác nhau cho từng kiểu đau.
Để chẩn đoán chính xác tình trạng bệnh, các xét nghiệm có thể được yêu cầu thực hiện để loại trừ các nguyên nhân gây đau kể trên. Kỹ thuật phù hợp nhất trong trường hợp này là chụp cộng hưởng từ (MRI) nhằm loại trừ khối u hoặc bệnh đa xơ cứng. Hình ảnh chụp MRI sẽ cho ra câu trả lời “Có” hoặc “Không” tình trạng một mạch máu chèn ép dây thần kinh. Kỹ thuật chụp MRI còn có thể cho thấy mức độ nghiêm trọng của việc chèn ép dây thần kinh bởi mạch máu (nếu có).
Có nhiều cách trị đau dây thần kinh sinh ba, trong đó việc sử dụng thuốc, phẫu thuật và các phương pháp bổ sung đang được các bác sĩ áp dụng.
Các loại thuốc chống co giật được sử dụng để ngăn chặn sự kích thích thần kinh, thường cho hiệu quả trong điều trị TN1 nhưng lại kém hiệu quả đối với TN2. Những loại thuốc này bao gồm carbamazepine, oxcarbazepine, topiramate, gabapentin, pregabalin, clonazepam, phenytoin, lamotrigine và axit valproic.
Thuốc chống trầm cảm ba vòng như amitriptyline hoặc nortriptyline có thể được sử dụng để điều trị cơn đau. Thuốc giảm đau thông thường và nhóm opioid (nhóm thuốc được kê đơn) không mấy hiệu quả trong việc điều trị cơn đau buốt, tái phát do TN1 gây ra, nhưng có thể đáp ứng với bệnh nhân dạng TN2.
Nếu thuốc không giúp bạn giảm đau hoặc gây ra các tác dụng phụ do không thể dung nạp (như rối loạn nhận thức, mất trí nhớ, mệt mỏi quá mức, ức chế tủy xương hoặc dị ứng) thì điều trị phẫu thuật có thể được chỉ định. Vì đau TN là một rối loạn tiến triển, trở nên kháng thuốc theo thời gian nên điều trị phẫu thuật thường được áp dụng.
Thủ thuật phẫu thuật thần kinh được xem xét điều trị đau dây thần kinh sinh ba sẽ tùy thuộc vào các yếu tố: bản chất của cơn đau, sở thích cá nhân, sức khỏe thể chất; huyết áp và các cuộc phẫu thuật trước đó; sự hiện diện của bệnh đa xơ cứng và sự phân bố của dây thần kinh sinh ba (đặc biệt khi liên quan đến nhánh mắt). Một số thủ thuật được thực hiện trên cơ sở bệnh nhân ngoại trú, trong khi số khác có thể cần đến kỹ thuật gây mê toàn thân. Người bệnh có thể sẽ phải trải qua cảm giác tê mặt ở những mức độ khác nhau sau khi thực hiện thủ thuật này. Đau TN cũng có thể tái lại ngay cả khi đã thực hiện phẫu thuật. Bạn cũng có thể phải đối diện với những rủi ro sau phẫu thuật, bao gồm mất thính giác, các vấn đề về thăng bằng, rò rỉ dịch não tủy (loại chất lỏng sinh lý dùng để bảo vệ não), nhiễm trùng, gây mê dolorosa (sự kết hợp của tê bề mặt và đau rát sâu) và đột quỵ (hiếm khi xảy ra).
Thủ thuật có thể xem xét áp dụng bao gồm:
Glycerol có thể ngăn chặn khả năng truyền tín hiệu liên quan đến cơn đau của dây thần kinh hoặc giúp chữa lành lớp cách điện của dây thần kinh mà không làm tổn thương dây thần kinh. Quy trình này diễn ra trong vài phút và bạn có thể về nhà ngay trong ngày. Với hình thức này, cơn đau có thể tái lại trong vòng 1-2 năm. Tuy nhiên, phương thức này có thể được lặp lại nhiều lần.
Những biện pháp khác như kích thích não, hủy hạch Gasser… có thể được áp dụng sau khi tất cả các liệu pháp trên không phát huy hiệu quả hoặc người bệnh không thuộc nhóm đối tượng có thể giảm áp lực vi mạch lên gốc dây thần kinh sinh ba. Bao gồm:
Đến nay chưa có biện pháp cụ thể nào được khuyến cáo trong việc phòng ngừa đau dây thần kinh sinh ba. Bạn chỉ có thể hạn chế tiến triển của bệnh bằng cách thay đổi một số thói quen sinh hoạt sau:
Chụp MRI được xem là kỹ thuật hữu hiệu nhất trong chẩn đoán bệnh đau dây thần kinh sinh ba. Do đó, khi thấy xuất hiện dấu hiệu bệnh, bạn nên tìm đến các cơ sở y tế được trang bị máy móc hiện đại và đội ngũ bác sĩ đọc ảnh kinh nghiệm để nhanh chóng phát hiện nguyên nhân gây ra những cơn đau. Những kết quả chụp chiếu sẽ giúp các bác sĩ chẩn đoán chính xác và đưa ra hướng điều trị phù hợp nhất cho vấn đề mà bạn đang mắc phải.
ĐỂ ĐẶT LỊCH HẸN KHÁM VÀ TÌM HIỂU THÔNG TIN, XIN VUI LÒNG LIÊN HỆ HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
– Hà Nội:
– TP.HCM:
– Fanpage: https://www.facebook.com/benhvientamanh