Với ung thư thanh quản giai đoạn 0, các tế bào ác tính chỉ mới hình thành trong lớp tế bào niêm mạc che phủ vùng thanh quản, chưa xâm lấn đến các mô lân cận và hạch bạch huyết gần đó. Chẩn đoán và điều trị bệnh ở giai đoạn này cho tỷ lệ thành công cao.
Ung thư biểu mô tại chỗ được chẩn đoán khi những tế bào ác tính được tìm thấy khi quan sát mẫu mô u dưới kính hiển vi, nhưng các tế bào ác tính này chưa lan ra khỏi ranh giới của lớp tế bào lót trong cùng (như hình 1). Từ “tại chỗ” (tiếng Anh là in situ) có nghĩa là “tại vị trí nguyên phát của nó.” Vì vậy ung thư biểu mô tại chỗ còn có tên gọi khác là ung thư không xâm lấn hay ung thư giai đoạn 0. (1)
Ung thư thanh quản giai đoạn 0 là sự hình thành các tế bào ác tính trong lớp tế bào niêm mạc che phủ vùng thanh quản, có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào của thanh quản, chưa xâm lấn đến các mô lân cận và hạch bạch huyết gần đó. Tuy nhiên nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, các tế bào ác tính này có khả năng phát triển thành khối u xâm lấn và lan đến các mô lành gần đó. (2)
Ung thư thanh quản giai đoạn 0 còn được gọi là ung thư biểu mô tại chỗ.
Thanh quản được chia thành 3 vùng tương ứng với 3 tên gọi là thượng thanh môn, thanh môn và hạ thanh môn. Tỷ lệ ung thư thanh quản theo vị trí 3 vùng như sau: 30-35% ở thượng thanh môn, 60-65% ở vùng thanh môn và 5% ở vùng hạ thanh môn.
Vị trí cụ thể của 3 vùng này lần lượt là (xem hình số 3 + 4):
Ung thư thanh quản được phân giai đoạn dựa theo hướng dẫn của Ủy ban Liên hợp về Ung thư Hoa Kỳ (AJCC: American Joint Committee on Cancer), với phiên bản 8 (cập nhật mới nhất năm 2017).
Đánh giá giai đoạn ung thư thanh quản dựa trên đặc điểm của 3 yếu tố: (3)
Ung thư thanh quản giai đoạn 0 hay ung thư thanh quản tại chỗ phải đạt được đủ 2 điều kiện sau: (4)
Xem thêm:
Bất kỳ điều gì làm tăng khả năng phát triển ung thư đều được xem là yếu tố nguy cơ. Yếu tố nguy cơ có thể đến từ những hoạt động của chính bản thân người bệnh, tác động từ môi trường sống xung quanh hoặc được truyền từ ba mẹ sang con cái qua bộ gen (gen là bộ mã hóa cho các tế bào trong cơ thể chúng ta). Yếu tố nguy cơ của ung thư thanh quản có thể bao gồm những yếu tố sau:
Ung thư thanh quản thường gặp ở bệnh nhân lớn hơn 40 tuổi.
Ung thư thanh quản thường gặp ở nam giới hơn là nữ giới. Điều này có thể là do thói quen hút thuốc lá và uống nhiều rượu bia gặp ở nam giới nhiều hơn.
Khi hút thuốc lá, khói thuốc lá sẽ đi qua thanh quản trước khi đến phổi của bạn. Làn khói này chứa nhiều hóa chất độc hại. Hút thuốc lá (thuốc lá điếu, tẩu, xì gà) làm tăng nguy cơ phát triển ung thư thanh quản. Đây là một trong những yếu tố nguy cơ chính gây ung thư thanh quản ở phương Tây. Nguy cơ ung thư càng tăng khi thời gian người bệnh hút thuốc càng lâu năm và số điếu hút mỗi ngày càng nhiều.
Uống nhiều rượu bia làm tăng nguy cơ ung thư thanh quản. Hiện tại chưa có định nghĩa chính xác lượng rượu bia tiêu thụ có thể làm tăng nguy cơ ung thư thanh quản. Tuy nhiên, một số hướng dẫn về dinh dưỡng khuyến cáo rằng đàn ông không nên uống quá 3 lon bia (330ml) 5%/ngày và không quá 9 lon/tuần, rượu 40% không uống quá 100ml/ngày và không quá 250ml/tuần; phụ nữ không nên uống quá 2 lon bia (330ml) 5%/ngày và không quá 7 lon/tuần, rượu 40% không quá 75ml/ngày và không quá 150ml/tuần. Nguy cơ ung thư thanh quản sẽ cao hơn nếu có cả 2 thói quen là hút thuốc lá và uống nhiều rượu bia.
Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC- International Agency for Research on Cancer) liệt kê sương mù chứa Acid và Amiăng (hay Asbestos) là những chất được chứng minh làm tăng nguy cơ mắc ung thư thanh quản.
Nguy cơ ung thư thanh quản cao gấp đôi ở những người bị nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori (vi khuẩn HP) so với những người không nhiễm (Helicobacter pylori là một loại vi khuẩn ảnh hưởng đến dạ dày, nó có thể gây loét dạ dày).
HPV (Human papilloma virus) là viết tắt tên một loại virus gây u nhú ở người. Đây là một bệnh phổ biến, thường không gây ra triệu chứng và có thể tự khỏi. Một số nghiên cứu cho rằng HPV16 có liên quan đến ung thư thanh quản nhưng các bằng chứng vẫn còn chưa rõ ràng. HPV là nguyên nhân phổ biến của các loại ung thư đầu và cổ khác, nhưng mối liên quan giữa HPV và ung thư thanh quản còn rất hạn chế.
Ung thư thanh quản giai đoạn 0 gần như không có triệu chứng. Phần lớn các bệnh nhân được tình cờ phát hiện bệnh khi thăm khám do bệnh lý khác của vùng tai mũi họng. Vì vậy việc phát hiện ung thư thanh quản giai đoạn 0 tương đối khó khăn.
Nếu có những yếu tố làm tăng nguy cơ mắc ung thư thanh quản được kể trên, người bệnh nên chủ động đến tầm soát ở những bệnh viện có chuyên khoa tai mũi họng.
Giai đoạn này, ung thư chỉ tập trung ở vùng thanh quản, chưa xâm lấn đến các vùng lân cận, chưa di căn hạch, cũng chưa di căn đến các cơ quan khác nên khả năng điều trị khỏi bệnh rất cao, tiên lượng sống của bệnh nhân rất khả quan.
Nhìn chung, nếu được điều trị đúng, tỷ lệ sống sau 5 năm của ung thư thanh quản giai đoạn 0 là khoảng 90%. Tiên lượng bệnh nhân ung thư thanh quản giai đoạn 0 thường rất khả quan, đáp ứng điều trị tốt.
Ung thư thanh quản giai đoạn sớm thường khó chẩn đoán, phát hiện sớm nếu không nghĩ đến; bởi các dấu hiệu cảnh báo bệnh ban đầu có thể bị nhầm lẫn với bệnh lý tai mũi họng thông thường và dễ dàng bị bỏ qua.
Người bệnh có những yếu tố làm tăng nguy cơ mắc ung thư thanh quản được kể trên, hãy chủ động đến khám tầm soát tại các bệnh viện uy tín.
Các phương pháp chẩn đoán ung thư thanh quản giai đoạn 0 gồm: (5)
Phẫu thuật là phương pháp chính điều trị ung thư thanh quản giai đoạn 0. Việc lựa chọn phương pháp phẫu thuật dựa trên các yếu tố như vị trí của tổn thương trong thanh quản, mức độ ảnh hưởng đến chức năng của thanh quản, mong muốn của người bệnh, khả năng tuân thủ theo dõi bệnh sau điều trị và điều quan trọng là phải dựa vào tổng trạng của người bệnh để lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp nhất.
Để tìm hiểu thông tin thăm khám và sàng lọc ung thư thanh quản, hạ họng tại BVĐK Tâm Anh, bạn có thể liên hệ qua:
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Phát hiện ung thư thanh quản giai đoạn 0 có ý nghĩa rất lớn vì tỷ lệ thành công của điều trị giai đoạn này rất cao. Mặc dù là ung thư tại chỗ có tiên lượng khá tốt, khả năng đáp ứng điều trị cao nhưng người bệnh vẫn cần tuân thủ nghiêm ngặt lịch tái khám của bác sĩ để phòng nguy cơ bệnh tái phát.