Vảy nến (psoriasis) là bệnh mạn tính, tiến triển từng đợt, dai dẳng, căn nguyên của bệnh chưa rõ, chiếm 2%-3% dân số. Trong một số trường hợp, bác sĩ Da liễu có thể cần xét nghiệm bệnh vảy nến để xác định bệnh, phân loại và lên phác đồ điều trị bệnh hiệu quả. Vậy bệnh cần làm xét nghiệm gì? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Không phải lúc nào cũng cần xét nghiệm bệnh vảy nến để chẩn đoán bệnh. Phần lớn trường hợp bác sĩ có thể chẩn đoán chỉ dựa vào thăm khám lâm sàng. Tuy nhiên, xét nghiệm sẽ được chỉ định trong các trường hợp sau:
Bên cạnh dựa vào triệu chứng, bác sĩ có thể chỉ định một số xét nghiệm nếu cần thiết để chẩn đoán bệnh. Dưới đây là các phương pháp phổ biến:
Chỉ định khi tổn thương không điển hình hoặc cần phân biệt với các bệnh da khác (viêm da cơ địa, nấm da, nấm móng, lichen phẳng…). Bác sĩ sẽ lấy một mảnh da hoặc móng nhỏ để soi dưới kính hiển vi để tìm kiếm những điểm đặc trưng của vảy nến.
Bác sĩ có thể chỉ định xét nghiệm công thức máu để đánh giá chức năng gan, thận, tình trạng viêm, nhiễm trùng mạn tính như viêm gan siêu vi, lao tiềm ẩn, HIV… trước và trong khi điều trị bằng các loại thuốc toàn thân như methotrexate, cyclosporin, retinoid, thuốc sinh học… để theo dõi tác dụng phụ của thuốc cũng như lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp, cá nhân hóa.
Ngoài ra, xét nghiệm máu có giá trị trong một số trường hợp như người bệnh mắc vảy nến thể mủ toàn thân (von Zumbusch) có thể gây mất cân bằng điện giải, hạ canxi máu. Xét nghiệm sinh hóa máu, cụ thể là canxi máu có thể giúp phát hiện kịp thời để kiểm soát biến chứng.
Ở người bệnh gặp biến chứng viêm khớp vảy nến, một số chỉ số máu có thể giúp bác sĩ theo dõi tình trạng viêm khớp như:
Xét nghiệm ASLO hay xét nghiệm đo lường nồng độ kháng thể Anti-Streptolysin O trong máu. Kháng thể được tạo để chống lại Streptolysin O, một độc tố do vi khuẩn liên cầu nhóm A (Streptococcus pyogenes) sản xuất, thường gây các bệnh nhiễm trùng như viêm họng và các bệnh về da. Xét nghiệm có thể giúp xác định nguyên nhân bệnh, cụ thể là vảy nến thể giọt do vi khuẩn liên cầu nhóm A gây ra.
Dù ít khi được chỉ định, xét nghiệm gen vẫn có giá trị trong việc chẩn đoán xác định vảy nến. Một số gen có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh, ví dụ HLA-CW6 gặp ở 87% người bệnh, hoặc các gen như HLA-B13, B17, BW57, CW6… Ngoài ra, xét nghiệm gen có thể hỗ trợ cá nhân hóa điều trị.
Ngoài các phương pháp xét nghiệm trên, người bệnh nghi ngờ mắc viêm khớp vảy nến có thể được chỉ định một số phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác như siêu âm, chụp X-quang, CT… Bệnh này xuất hiện trên 20%-30% trường hợp người mang bệnh vảy nến, khoảng 80% trường hợp có viêm khớp xuất hiện sau tổn thương bệnh. (1)
Mỗi xét nghiệm được chỉ định bởi bác sĩ Da liễu đều có giá trị trong việc đánh giá, chẩn đoán, phân loại tình trạng bệnh:
Dưới đây là quy trình xét nghiệm bệnh vảy nến tại Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM:
Phần lớn các xét nghiệm không gây đau hoặc chỉ đau ít, do chỉ cần lấy máu, mẫu sinh thiết da nhỏ hoặc soi da đơn giản.
Với xét nghiệm máu thông thường không cần nhịn ăn. Tuy nhiên, nếu bác sĩ yêu cầu làm thêm xét nghiệm sinh hóa (đường huyết, mỡ máu…) thì nên nhịn ăn 8-10 tiếng trước khi lấy máu. Bạn sẽ được hướng dẫn cụ thể khi làm thủ tục.
Đa số kết quả xét nghiệm máu hoặc soi da thường có trong trong ngày. Nếu có sinh thiết da hoặc xét nghiệm lao, thời gian trả sau vài ngày làm việc.
Khách hàng có thể thực hiện tại Khoa Da liễu – Thẩm mỹ Da, Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM. Cùng với đội ngũ bác sĩ Da liễu giàu kinh nghiệm, bệnh viện còn có hệ thống cơ sở xét nghiệm – mô bệnh học hiện đại, giúp chẩn đoán chính xác và điều trị hiệu quả các bệnh về da. Ngoài ra, khoa Da liễu – Thẩm mỹ Da cũng có những loại thuốc mới, hiện đại như thuốc sinh học, giúp người bệnh kiểm soát hiệu quả.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Trên đây là các phương pháp xét nghiệm có thể được chỉ định cho người bệnh. Dù trong nhiều trường hợp, người bệnh không cần xét nghiệm bệnh vảy nến để xác định. Nhưng những xét nghiệm lại có nhiều ý nghĩa trong việc phân loại, lên phác đồ điều trị cũng như theo dõi tình trạng sức khỏe, khả năng đáp ứng điều trị của người bệnh.