Bất kỳ tổn thương nào ở thận kéo dài trên 3 tháng, ảnh hưởng chức năng đến hình ảnh, hoặc cấu trúc mô học của thận, đều được định nghĩa là bệnh thận mạn Chronic Kidney Disease (CKD). Bệnh làm suy giảm chức năng lọc máu, lọc chất thải, cân bằng điện giải,… tự nhiên của thận. Điều này làm nhiều người thắc mắc không biết bệnh thận mạn và suy thận mạn có giống nhau không? Bài viết này, bác sĩ CKII Hồ Tấn Thông, Đơn vị Nội thận – Lọc máu, Trung tâm Khám chữa bệnh Tâm Anh Quận 7 sẽ tư vấn giải đáp thắc mắc.
Bệnh thận mạn và suy thận mạn giống nhau, trên thực tế đây là 1 bệnh. Bệnh thận mạn được định nghĩa là thuật ngữ y khoa chỉ 1 nhóm bệnh gây ra bất kỳ tổn thương nào ở thận kéo dài trên 3 tháng, có tên tiếng anh là Chronic Kidney Disease (CKD), bệnh có 5 giai đoạn chính, giai đoạn 3 được chia làm 2 giai đoạn nhỏ là 3A và 3B.
Hiện tại, Cục quản lý Khám chữa bệnh của Bộ Y tế đã chuyển tên gọi “suy thận mạn” thành “bệnh thận mạn” và thống nhất sử dụng trong khám chữa bệnh tại cơ sở y tế. Tóm lại, suy thận mạn và bệnh thận mạn là 1 bệnh, do có sự thay đổi về tên gọi theo từng thời điểm, quy định nên dễ khiến nhiều người nhầm lẫn.
Giữa bệnh thận mạn và suy thận mạn là tên gọi của cùng 1 bệnh, gây tổn thương thận không thể phục hồi.
Bệnh thận mạn (CKD) được điều trị bằng liệu pháp thay thế thận, gồm: chạy thận nhân tạo, lọc màng bụng, hoặc ghép thận. Ở người bệnh không có tiểu đạm kéo dài từ 3 tháng trở lên, bất kể nguyên nhân gây tổn thương thận hoặc mức lọc cầu thận ước tính (eGFR) dưới 60 mL/phút/1,73 m2 da được kết luận mắc suy thận mạn.
Theo thời gian, CKD tiến triển khiến người bệnh mất dần chức năng thận, cuối cùng (khi eGFR < 10 – 15 mL/phút/1,73m2 da) cần được can thiệp điều trị bằng chạy thận nhân tạo, lọc màng bụng để kéo dài sự sống. Ghép thận là phương pháp điều trị duy nhất cho CKD. (1)
Sự phát triển của bệnh thận mạn (CKD) và sự tiến triển của nó thành suy thận giai đoạn cuối (End stage renal disease – ESRD) hiện là nguyên nhân hàng đầu gây suy giảm chất lượng cuộc sống và tăng tỷ lệ tử vong sớm trong dân số nói chung. Nhiều bệnh mạn tính có thể gây ra suy thận giai đoạn cuối. Trong đó, đái tháo đường là nguyên nhân hàng đầu.
Các nguyên nhân phổ biến của bệnh thận mạn (CKD) được xác định gồm:
Ngoài ra, CKD có thể là kết quả của quá trình bệnh gồm: trước thận (giảm áp lực tưới máu thận), tại thận (bệnh về mạch máu, cầu thận hoặc ống kẽ thận) hoặc sau thận (tắc nghẽn).
Các yếu tố làm tăng nguy cơ suy thận mạn đã được xác định gồm: (2)
Phương pháp chẩn đoán bệnh thận mạn là xét nghiệm nước tiểu hoặc xét nghiệm máu. Thông thường, khi được chẩn đoán mắc bệnh thận mạn, người bệnh sẽ được theo dõi điều trị để làm chậm quá trình tiến triển thành suy thận giai đoạn cuối.
Xét nghiệm chính để chẩn đoán CKD là xét nghiệm máu. Xét nghiệm này đo nồng độ creatinine trong máu. Bác sĩ sử dụng kết quả xét nghiệm máu, cộng với độ tuổi và giới tính của người bệnh để tính toán lượng chất thải mà thận có thể lọc trong 1 phút. Kết quả của phép tính này được gọi là mức lọc cầu thận ước tính (eGFR). Thận khỏe mạnh sẽ có khả năng lọc hơn 60 – 90ml/phút. Nếu kết quả thấp hơn mức bình thường, người bệnh được chẩn đoán mắc CKD.
Xét nghiệm nước tiểu được thực hiện để chẩn đoán bệnh thận mạn, bác sĩ sẽ kiểm tra mức độ của albumin và creatinine trong nước tiểu và tính toán tỷ lệ albumin:creatinine, hoặc ACR: protein. Cùng với eGFR, xét nghiệm nước tiểu có thể giúp cung cấp thêm kết quả về mức độ hoạt động của thận.
Nếu có nhu cầu đánh giá về mức độ và vị trí tổn thương thận, bác sĩ có thể yêu cầu thực hiện các xét nghiệm như:
Dựa trên giai đoạn và nguyên nhân gây bệnh, bác sĩ sẽ có cách điều trị CKD phù hợp, với mục tiêu điều trị là dùng thuốc với liều dùng phù hợp với eGFR của người bệnh để làm chậm tiến tiến triển của bệnh. Không thể điều trị phục hồi chức năng thận đã mất ở người bị CKD.
Khi được chẩn đoán mắc bệnh thận mạn, bác sĩ sẽ tập trung điều trị các nguyên nhân có thể khắc phục hoặc kiểm soát được như huyết áp, đường huyết, bệnh tim mạch,… và kiểm soát các tác nhân có thể gây độc cho thận gồm: aminoglycoside và thuốc chống viêm không steroid (NSAID).
Sau đó, bác sĩ tiến hành điều trị chuyên sâu để cố gắng làm chậm quá trình tiến triển của bệnh, càng chậm càng tốt. Điều trị làm chậm tiến triển bệnh bao gồm: thay đổi chế độ dinh dưỡng, tiếp tục điều trị các nguyên nhân có thể khắc phục hoặc kiểm soát, song song đó là điều trị nhiễm toan chuyển hóa, kiểm soát đường huyết, albumin niệu. Dựa trên từng giai đoạn bệnh cụ thể, bác sĩ có thể trao đổi với người bệnh về điều trị tiền lọc máu, điều trị lọc máu, ghép thận hoặc điều trị bảo tồn, tùy thuộc vào mong muốn của người bệnh.
Đối với suy thận giai đoạn cuối (ESRD) lựa chọn điều trị khi này nhằm mục tiêu duy trì sự sống, cải thiện các triệu chứng của bệnh thận mạn giai đoạn cuối. Các lựa chọn điều trị bao gồm:
Giải đáp nhanh: Suy thận mạn có chữa được không?
Như vậy, bệnh thận mạn và suy thận mạn là 1 bệnh với những tổn thương ở thận kéo dài trên 3 tháng, tiến triển theo từng giai đoạn và cuối cùng đến giai đoạn 5 – suy thận giai đoạn cuối gây mất hoàn toàn chức năng thận. Khi này người bệnh buộc phải lọc máu nhân tạo để cải thiện triệu chứng và duy trì sự sống. Ghép thận là lựa chọn điều trị dứt điểm duy nhất cho bệnh thận mạn.
Điều trị bệnh thận mạn tại khoa Nội thận – Lọc máu, Trung tâm Tiết niệu – Thận học – Nam khoa, BVĐK Tâm Anh TP.HCM và Đơn vị Nội thận – Lọc máu, Trung tâm Khám chữa bệnh Tâm Anh Quận 7. Tại đây có đội ngũ bác sĩ Nội thận – Lọc máu giỏi, giàu kinh nghiệm, hệ thống máy lọc máu hiện đại, nước R.O siêu tinh khiết, giúp can thiệp và điều trị kịp thời các biến chứng, khắc phục triệu chứng và cải thiện tiên lượng sống cho người mắc bệnh thận mạn.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Hy vọng, với những thông tin bài viết vừa chia sẻ đã giúp giải đáp thắc mắc của bạn về việc bệnh thận mạn và suy thận mạn có giống nhau không? cũng như nhiều thông tin hữu ích về mối liên hệ, nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị bệnh thận mạn.