Trong quá trình hít thở, hệ hô hấp của con người sẽ hấp thu khí oxy, loại bỏ khí CO2. Khi cơ thể có tình trạng tăng CO2, nghĩa là nồng độ CO2 trong máu tăng cao, vượt mức cho phép, dẫn đến rối loạn chuyển hóa, chức năng các cơ quan, ảnh hưởng đến tính mạng. Vậy kỹ thuật đào thải CO2 qua màng ngoài cơ thể là gì? Khi nào được áp dụng? Bài viết sau được bác sĩ CKI Vương Mỹ Dung, Phó khoa Hồi sức tích cực & Chống độc, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM giải đáp cụ thể phương pháp này.
Kỹ thuật đào thải CO2 qua màng ngoài cơ thể là phương pháp điều trị hỗ trợ cơ thể loại bỏ CO2 hiệu quả. Máu của người bệnh được lấy qua 1 ống thông được đặt trong tĩnh mạch và theo 1 hệ thống dây dẫn đến màng lọc. Tại đây, CO2 trong máu người bệnh sẽ được thải ra ngoài.
Máu sau khi được trao đổi sẽ có nồng độ CO2 thấp, được trả về cơ thể của người bệnh.
Kỹ thuật đào thải CO2 qua màng ngoài cơ thể được áp dụng trên 2 nhóm bệnh chính là suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS) và đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (aeCOPD), cụ thể:
Nhóm | Tiêu chí | Mục tiêu |
Đợt cấp COPD
(AECOPD) |
Nguy cơ thất bại với thở máy không xâm nhập (NIV):
|
Giảm nguy cơ đặt nội khí quản. |
Thở máy xâm lấn với ≥ 2 lần cai máy thất bại | Hỗ trợ cai máy | |
ARDS | Hỗ trợ cài đặt thông khí siêu bảo vệ phổi
Chọn lựa ca bệnh với tỉ lệ thành công cao:
|
|
Thông khí cứu vãn
|
Chỉ định và chống chỉ định lựa chọn kỹ thuật đào thải CO2 qua màng ngoài cơ thể:
Chỉ định kỹ thuật đào thải CO2 qua màng ngoài cơ thể bao gồm 3 nhóm đối tượng chính:
Tuyệt đối:
Người bệnh tổn thương đa cơ quan nặng, không đảo ngược được hoặc đang trong tình trạng nguy kịch có tiên lượng tử vong cao (tổn thương não, thiếu oxy nặng, ung thư giai đoạn cuối).
Tương đối:
Các yếu tố quyết định đến quá trình đào thải CO2 qua màng ngoài cơ thể bao gồm:
Kỹ thuật ECCO2R có thể thực hiện ở tốc độ máu thấp (<500ml/phút) và trung bình (500-1000ml/phút), so với lưu lượng máu cao như của ECMO (2-10l/phút). Với hệ thống ECCO2R hết hợp với CRRT (siêu lọc máu liên tục) chỉ cần lưu lượng máu thấp, do đó cho phép sử dụng catheter (ống thông y tế) có kích thước nhỏ hơn (13–15.5F) so với canule (ống nhựa mềm bọc ngoài phần kim tiêm bằng sắt) của ECMO (oxy hóa máu qua màng ngoài cơ thể), giúp giảm nguy cơ biến chứng liên quan đến catheter cho người bệnh.
Ưu và nhược điểm của kỹ thuật đào thải CO2 qua màng ngoài cơ thể:
Nếu so với ECMO, kỹ thuật đào thải CO2 qua màng ngoài cơ thể có một số ưu điểm như:
Khi phổi tổn thương nặng cần được thở máy với chiến lược thông khí bảo vệ phổi. Tuy nhiên, trong trường hợp này, máy thở hỗ trợ càng cao thì nguy cơ tổn thương phổi, CO2 trong máu người bệnh càng tăng lên và có nguy cơ làm bệnh thêm nghiêm trọng.
Kỹ thuật đào thải CO2 qua màng ngoài cơ thể giúp đào thải CO2 ra ngoài, tạo thuận lợi cho bác sĩ cài đặt thông số máy thở thấp xuống, giảm nguy cơ tạo thêm gánh nặng cho phổi của người bệnh và giúp phổi được nghỉ ngơi nhiều hơn.
Có nhiều biến chứng liên quan đến kỹ thuật đào thải CO2 qua màng ngoài cơ thể, được chia thành ba nhóm: liên quan đến người bệnh, liên quan đến ống thông và liên quan đến thiết bị, cụ thể:
Tác dụng phụ thường gặp nhất là chảy máu các cơ quan (não, đường tiêu hóa và vòm họng), chủ yếu do dùng thuốc chống đông máu toàn thân. Các biến chứng thường gặp khác là giảm tiểu cầu và thiếu máu tán huyết. Thiếu máu cục bộ chi dưới và hội chứng chèn ép khoang chi dưới (cần cắt cụt chi) có liên quan đến việc đặt ống thông động mạch.
Mặt khác, đặt ống thông tĩnh mạch có thể gây nhiều biến chứng phổ biến hơn, bao gồm: chảy máu tại vị trí đặt ống thông, sai vị trí, hình thành huyết khối và nhiễm trùng.
Cuối cùng, việc thay đổi thiết bị có thể dẫn đến hỏng bơm hoặc máy tạo oxy, trục trặc bộ trao đổi nhiệt hoặc hình thành cục máu đông.
Trước hết, bác sĩ cần kiểm tra chức năng đông máu của người bệnh, xét nghiệm tình trạng đông máu và tiểu cầu của người bệnh. Từ đó đảm bảo khi đặt ống thông cho người bệnh sẽ hạn chế biến chứng chảy máu cũng như điều chỉnh liều thuốc chống đông cho người bệnh.
Đảm bảo huyết áp để khi lấy máu, người bệnh không bị tụt huyết áp. Trong quá trình thực hiện, bác sĩ phải thường xuyên xét nghiệm khí máu động mạch để xem nồng độ CO2 có đạt mức mong muốn chưa và điều chỉnh các thông số, giúp phát hiện tình trạng giảm oxy máu.
Kỹ thuật đào thải CO2 qua màng ngoài cơ thể không gây đau do trong suốt quá trình đặt ống thông tĩnh mạch, người bệnh sẽ được gây tê cục bộ, do đó không có cảm giác đau trong quá trình thực hiện. Sau khi đặt ống thông tĩnh mạch, người bệnh cũng cần cẩn trọng, hạn chế cử động. Vì khi bị lực mạnh tác động, ống thông có thể xê dịch khỏi vị trí ban đầu.
Kỹ thuật đào thải CO2 qua màng ngoài cơ thể là phương pháp điều trị tương đối an toàn, giúp loại bỏ CO2 khỏi cơ thể người bệnh bị suy hô hấp tăng CO2, bị đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS)… Tuy nhiên, trong quá trình điều trị, người bệnh cần được theo dõi các biến chứng thường gặp và xử trí sớm nếu có biến chứng xảy ra.
Kỹ thuật đào thải CO2 qua màng ngoài cơ thể đã được áp dụng tại khoa Hồi sức tích cực & Chống độc, BVĐK Tâm Anh TP.HCM, là phương pháp mới trên thế giới, đã được triển khai một thời gian, thành công tại Châu Âu và Mỹ.
Nhờ áp dụng kỹ thuật này bằng đường tĩnh mạch, mức độ tổn thương ở mạch máu được giảm đi đáng kể, các biến chứng nguy hiểm cũng ít gặp hơn. Bên cạnh đó, chi phí thực hiện kỹ thuật đào thải CO2 qua màng ngoài cơ thể thấp hơn so với ECMO, giúp tiết kiệm chi phí cho người bệnh.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Tóm lại, kỹ thuật đào thải CO2 qua màng ngoài cơ thể là phương pháp mới trong lĩnh vực hồi sức cấp cứu, được chỉ định trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ADRS) hoặc các trường hợp tăng CO2 máu không đáp ứng với biện pháp thông khí nhân tạo trong một số trường hợp.