Nhiều người cho rằng việc phát hiện 1 khối u ở ngực sẽ khó khăn hơn nếu có kích cỡ ngực lớn. Vậy điều này có đúng không? Kích thước ngực và ung thư vú liên quan đến nhau như thế nào? Bài viết sau của bác sĩ CKI Lê Ngọc Vinh, Khoa Ngoại vú – Đầu Mặt Cổ, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM giải đáp các vấn đề trên
Kích thước ngực không phải là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư vú. Dù béo phì và mô ngực dày có thể làm tăng nguy cơ, nhưng chưa có bằng chứng khoa học nào chứng minh mối liên hệ giữa kích thước ngực và căn bệnh này.
Là phụ nữ và càng lớn tuổi là 2 yếu tố nguy cơ ung thư vú quan trọng. Tiền sử gia đình, đột biến di truyền, mô ngực dày đặc và uống rượu cũng có thể làm tăng nguy cơ. Những người có đột biến ở gen BRCA1 hoặc BRCA2 có 50% khả năng tiến triển ung thư vú so với những người không có đột biến này. [1]
Không có nghiên cứu lớn nào cho thấy kích thước ngực là yếu tố nguy cơ tiến triển ung thư vú.
Béo phì là yếu tố nguy cơ quan trọng trong sự tiến triển của ung thư vú, đặc biệt với phụ nữ sau mãn kinh. Thông thường, phụ nữ béo phì có kích thước ngực lớn hơn so với phụ nữ bình thường, có thể khiến nhiều người hiểm lầm người có ngực lớn có nguy cơ ung thư vú cao hơn. Tuy nhiên, cân nặng hoặc chỉ số khối cơ thể (BMI) mới là yếu tố nguy cơ, kích thước ngực và ung thư vú không liên quan đến nhau.
Ngoài cân nặng, có những yếu tố khác làm tăng nguy cơ ung thư vú ở người có ngực cỡ lớn, bao gồm: giới tính, tuổi tác, tiền sử gia đình, khuynh hướng di truyền và uống rượu…
Giới tính nữ và lớn tuổi là 2 yếu tố nguy cơ lớn nhất với ung thư vú. Dù ung thư vú có thể xảy ra ở người trẻ nhưng hầu hết các trường hợp ung thư vú được phát hiện ở phụ nữ từ 50 tuổi trở lên.
Có tới 10% các trường hợp ung thư vú có liên quan đến tiền sử gia đình. Nghiên cứu cho thấy người thân cấp 1 (cha mẹ, anh chị em hoặc con cái mắc ung thư vú, nguy cơ ung thư vú của bạn sẽ tăng gấp đôi. [2]
Nguy cơ này còn tăng cao hơn nếu người thân mắc bệnh khi còn trẻ hoặc là nam giới. Ngoài ra, nguy cơ cũng tăng nếu người thân cấp 2 (cô, chú, dì, ông bà hoặc cháu ở 2 bên gia đình mắc ung thư vú.
Yếu tố gia đình làm tăng nguy cơ ung thư vú. Một số yếu tố gia đình có thể làm tăng nguy cơ bao gồm:
Nếu có bất kỳ yếu tố nguy cơ gia đình nào kể trên, bạn nên hỏi ý kiến bác sĩ và thực hiện tầm soát ung thư vú chuyên sâu hơn (bắt đầu tầm soát trước 40 tuổi) hoặc xét nghiệm di truyền. Kích thước ngực và ung thư vú không có mối quan hệ nào.
Nghiên cứu cho thấy phụ nữ uống lượng rượu vừa phải cũng làm tăng nguy cơ ung thư vú. Điều này đặc biệt đúng với ung thư vú dương tính với thụ thể estrogen (ER), vì rượu có thể làm tăng mức estrogen.
Phụ nữ uống 1 ly rượu mỗi ngày tăng từ 7%-10% nguy cơ ung thư vú. Ở mức 2-3 ly/ngày, nguy cơ tăng lên 20%. Thực tế, không có mức tiêu thụ rượu an toàn, càng uống ít thì nguy cơ càng thấp. [3]
Việc tiêu thụ rượu quá mức cũng có thể gây tổn thương trực tiếp đến ADN trong các tế bào mô vú. Tổn thương này có thể khiến các tế bào phân chia bất thường và nhanh chóng, tạo các khối u tiền ung thư và ung thư.
Khi 1 gen bị đột biến được truyền từ cha hoặc mẹ, nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ sẽ tăng lên. Các đột biến gen phổ biến nhất liên quan đến ung thư vú và ung thư buồng trứng xảy ra ở gen BRCA1 hoặc BRCA2.
Thông thường, các gen này giúp chống lại ung thư bằng cách ức chế khối u. Tuy nhiên, khi gen bị đột biến, các khối u có thể tiến triển.
Khoảng 50% phụ nữ có đột biến ở một trong các gen BRCA sẽ mắc ung thư vú trước tuổi 70, so với chỉ 7% phụ nữ Hoa Kỳ mắc bệnh này.
Nếu xét nghiệm di truyền cho thấy phụ nữ có đột biến ở một trong các gen BRCA, bác sĩ sẽ khuyến nghị tầm soát thường xuyên hơn. Bác sĩ cũng có thể trao đổi về các biện pháp phòng ngừa như phẫu thuật hoặc dùng thuốc.
Ngực được cấu tạo bởi mô tuyến, mô liên kết và mô mỡ. Mô tuyến là phần sản xuất sữa trong khi mô liên kết giữ cho ngực ở vị trí cố định. Những người có mô ngực dày đặc có ít mô mỡ hơn.
Khoảng 43% phụ nữ từ 40 đến 74 tuổi có mô ngực dày đặc, dẫn đến nguy cơ tiến triển ung thư vú cao hơn. Tuy nhiên, cần có thêm nghiên cứu để xác định nguyên nhân chính xác. [4]
Cuối cùng, việc phân tích kết quả chụp nhũ ảnh ở người có mô ngực dày đặc khó khăn hơn so với người có nhiều mô mỡ. Trên kết quả nhũ ảnh, mô ngực dày đặc và các khối u đều hiện màu trắng, khiến việc phân biệt trở nên khó khăn. Kích thước ngực và ung thư vú không liên quan đến nhau.
Việc có nguy cơ mắc ung thư vú cao có thể làm nhiều người cảm thấy lo lắng. Nếu có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào, bạn nên trao đổi với bác sĩ về các biện pháp phòng ngừa, trong đó có chụp nhũ ảnh hoặc thực hiện các phương pháp hình ảnh khác sớm hơn. Tùy thuộc vào yếu tố nguy cơ, bác sĩ cũng có thể chỉ định xét nghiệm di truyền, phẫu thuật phòng ngừa hoặc dùng thuốc.
Bạn cũng có thể giảm nguy cơ ung thư vú trong tầm kiểm soát bằng cách ăn uống lành mạnh, tập thể dục và không hút thuốc hoặc uống rượu quá mức.
Việc thu nhỏ ngực đã được chứng minh trong việc giúp giảm nguy cơ ung thư bằng cách giảm lượng mô vú mà ung thư có thể tiến triển. Phẫu thuật cắt bỏ vú dự phòng là thủ thuật tự chọn. Bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ 1 hoặc cả 2 bên vú để giảm đáng kể nguy cơ tiến triển ung thư. Thủ thuật này thường được thực hiện ở phụ nữ có nguy cơ cao mắc ung thư vú hoặc đã được chẩn đoán mắc bệnh này trước đó.
Không có nghiên cứu lớn nào khẳng định kích thước ngực và ung thư vú có mối liên hệ trực tiếp.
Béo phì đóng vai trò quan trọng trong sự tiếnphát triển của ung thư vú, đặc biệt là đối với phụ nữ sau mãn kinh. Cân nặng hoặc chỉ số khối cơ thể (BMI) mới là yếu tố nguy cơ chứ không phải kích thước ngực.
Người có ngực nhỏ có nguy cơ mắc ung thư vú tương tự người có ngực lớn. Kích thước ngực không liên quan trực tiếp đến nguy cơ mắc ung thư vú.
Kích thước ngực không ảnh hưởng trực tiếp đến việc điều trị ung thư vú vì kế hoạch điều trị chủ yếu được xác định bởi các yếu tố như giai đoạn ung thư, kích thước khối u, vị trí, loại ung thư vú và sức khỏe của người bệnh.
HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH
Dù kích thước ngực và ung thư vú không liên quan đến nhau nhưng việc hiểu rõ cơ thể và chú ý đến các dấu hiệu bất thường vẫn rất điều quan trọng. Ung thư vú có thể xảy ra ở mọi kích thước ngực. Do đó, chị em nên tầm soát định kỳ, thực hiện lối sống lành mạnh và duy trì cân nặng hợp lý để giảm nguy cơ ung thư vú.